• 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
 Bài mới nhất

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

Tứ đại điều quy




1. Tứ Đại Điều Quy là gì?
Tứ  là bốn. Đại  là to tát (great), cao cả (noble). Điều  là điều, khoản, mục (a clause, an item). Quy  là dụng cụ vẽ vòng tròn (a compass); là phép tắc, quy định (a regulation). Điều quy hay quy điều là phép tắc, quy định (regulations).
Tứ Đại Điều Quy (the Four Great Regulations) là bốn quy tắc lớn giúp con người sống, cư xử, làm việc đúng đạo lý, luật lệ.
2. Tứ Đại Điều Quy có nguồn gốc từ đâu? Nguyên văn trong Tân Luật ra sao?
Trước khi đạo Cao Đài ra đời ở Việt Nam thì bên Trung Quốc đã có Tứ Đại Điều Quy do ngài Thương Châu Tử([1]soạn để giúp người tu noi theo bốn quy tắc lớn này mà trau giồi đạo hạnh.
Sang Tam Kỳ Phổ Độ, Ơn Trên vẫn giữ lại một số cựu luật (luật của các tôn giáo có từ Nhất Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ). Do đó, Tân Luật Cao Đài (ra đời năm 1926) đã duy trì Tứ Đại Điều Quy, ấn định trong phần Đạo Pháp, Chương V, gồm một điều duy nhất là Điều thứ Hai Mươi Hai, nguyên văn như sau:
Điều thứ Hai Mươi Hai:
Buộc phải trau giồi đức hạnh giữ theo Tứ Đại Điều Quy là:
1. Phải tuân lời dạy của bề trên, chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ làm lỗi, phải ăn năn chịu thiệt.
2. Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên đạo. Đừng nhớ cừu riêng, chớ che lấp người hiền.
3. Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. Đối với trên, dưới đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
4. Trước mặt sau lưng, cũng đồng một bực, đừng kỉnh trước rồi khi sau.
Đừng thấy đồng đạo tranh đua ngồi mà xem không để lời hòa giải, đừng lấy chung làm riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung. Pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng mà trái trên dễ dưới. Đừng cậy quyền mà yểm tài người.
3. Điều Quy thứ Nhất có thể hiểu như thế nào?
Điều Quy thứ Nhất: Phải tuân lời dạy của bề trên, chẳng hổ([2]) chịu cho bực thấp hơn điều độ([3]). Lấy lễ hòa người. Lỡ làm lỗi, phải ăn năn chịu thiệt.
Bề trên là hội thánh, là các chức sắc, chức việc, các bậc lãnh đạo mỗi thánh sở Cao Đài([4]). Tuân lời dạy bề trên hữu hình là phải biết phục tùng tổ chức và lời khuyên dạy, mệnh lệnh của bậc hướng đạo đàn anh.
Phải tuân lời dạy của bề trên là bổn phận đàn em. Chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ là đức hạnh đàn anh đàn chị hướng đạo. Hai ý này bổ khuyết cho nhau theo hai chiều qua lại.
Chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ còn ngụ ý rằng đàn em không phải chỉ biết tuân phục đàn anh mà còn phải biết góp ý xây dựng khi thấy đàn anh chưa đúng.
Lấy lễ hòa người là giữ lễ phép, lễ độ, lịch sự trong giao tiếp để thể hiện đức hạnh người tu và để thu phục tình cảm người khác mới có thể giữ tình hòa ái.
Lỡ làm lỗi, phải ăn năn chịu thiệt là phải biết nhận lỗi, biết hối hận để sửa lỗi bản thân bởi lẽ còn làm người phàm tục thì khó tránh khỏi sai lầm.
4. Điều Quy thứ Hai có thể hiểu như thế nào?
Điều Quy thứ Hai: Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên đạo. Đừng nhớ cừu([5]) riêng, chớ che lấp người hiền.
Chớ khoe tài, đừng cao ngạo là hạnh khiêm tốn.
Quên mình mà làm nên cho người và Giúp người nên đạo là hạnh hy sinh, đức vị tha.
Đừng nhớ cừu riêng là hạnh hỷ xả, khoan thứ, bao dung.([6])
Chớ che lấp người hiền là không được che giấu người tài đức, phải có lòng quý trọng nhân tài, biết tiến cử, tạo cơ hội thuận lợi cho bậc hiền tài được thi thố năng lực giúp đời, giúp Đạo.
5. Điều Quy thứ Ba có thể hiểu như thế nào?
Điều Quy thứ Ba: Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. Đối với trên, dưới đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
Bạc tiền xuất nhập phân minh là mọi thu chi tiền bạc, vật dụng phải có sổ sách và phải có thêm người cộng sự làm chứng.
Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả: Cũng như trên, điều này liên quan tới giới cấm “nhì bất du đạo”.
Đối với trên, dưới đừng lờn dễ: Khi bề trên mềm mỏng, thương mến người dưới thì người dưới không được ỷ vào đó mà coi thường, thiếu lễ độ, thiếu cung kính đúng mực.
Trên dạy dưới lấy lễ: Bề trên không được ỷ quyền mà áp chế đàn em cấp dưới.
Dưới gián trên đừng thất khiêm cung: Đàn em góp ý, sửa lỗi cho bề trên phải nói năng lễ độ, có thái độ tôn trọng, đừng làm mất mặt bề trên.([7])
6. Điều Quy thứ Tư có thể hiểu như thế nào?
Điều Quy thứ Tư: Trước mặt sau lưng, cũng đồng một bực, đừng kỉnh trước rồi khi sau. Đừng thấy đồng đạo tranh đua ngồi mà xem không để lời hòa giải, đừng lấy chung làm riêng, đừng vụ riêng([8]) mà bỏ việc chung. Pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng mà trái trên dễ dưới([9]). Đừng cậy quyền mà yểm tài người([10]).
Trước mặt sau lưng, cũng đồng một bực, đừng kỉnh trước rồi khi sau: Đừng cư xử theo thói thấp hèn, trước mặt người thì làm bộ cung kính, tôn trọng, ca tụng nhưng vắng mặt người thì nói xấu, khinh thường.
Đừng lấy chung làm riêng đừng vụ riêng mà bỏ việc chung: Phải công bằng, vô tư, không để quyền lợi tư riêng ảnh hưởng công việc chung.([11])
Đừng cậy quyền mà yểm tài người: Cũng giống như Điều Quy thứ Hai “Chớ che lấp người hiền”.
7. Việc giữ Tứ Đại Điều Quy có ý nghĩa và tác dụng ra sao?
Tứ Đại Điều Quy chỉ gồm 157 chữ, con số này thực sự không nhiều. Nhưng bốn quy điều được gọi là “đại” bởi lẽ chúng có ý nghĩa to tát, có giá trị cao cả và có tác dụng diệu kỳ. Thật vậy, Tứ Đại Điều Quy là phép tắc giúp người tu giữ mình, tránh phạm phải sai lầm, tội lỗi để hoàn hảo hóa bản thân. Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy:
“Phải học cho thuộc Tứ Đại Điều Quy. Cứ noi theo đó mà diệt lần các tội xấu chưa sửa được thì sẽ vô sự. Bằng ai không theo đó mà sửa mình thì phải bị hại về sau.([12])
Thế nên giữ Tứ Đại Điều Quy tức là rèn luyện tính tình cho thành bậc đạo đức tâm hạnh vẹn toàn thì mới mong tiến hóa lên phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.
*
Phụ lục: Tứ Đại Điều Quy bằng văn vần
ĐIỀU THỨ NHỨT:
Họ . . . tên . . . thành tâm lập thệ
Đệ Nhứt Điều tuân lệ Phật Tiên
Kỉnh người trên vưng thửa dạy truyền([13])
Mến kẻ dưới lòng nguyền điều hộ([14])
Việc cư xử noi theo pháp độ([15])
Lòng từ hòa ái mộ người đời
Sửa mình ngay giảng giáo Đạo Trời
E phàm tục còn nơi sai thố([16])
Nghe người biết chỉ phân dạy dỗ
Mau ăn năn tỉnh ngộ tiền phi([17])
Đối đãi đời thấy quấy bỏ đi
Tuân huấn giáo tội thì tiêu rỗi
Chẳng nệ nhọc khuyên người tránh lỗi
Trên Phật Trời giảm tội ghi công.
Đức VẠN PHÁP GIÁO CHỦ
ĐIỀU THỨ NHÌ:
Hai là tuân Tam Giáo điều quy
Năng kiệm dụng([18]) chẳng khi lãng phí
Biết tiện tặn là bòn phước quý
Bày việc chi xét kỹ thị phi
Phòng ngày sau tai biến không kỳ
Tánh kiêu ngạo khinh khi chừa cải
Liều công khó giúp tròn nhơn ngãi([19])
Noi thánh hiền lời dạy đâu sai
Không kể công khoe giỏi rằng tài
Đừng thù chạ([20]) ẩn mai([21]) người phải.
Đức TRỊ NHỰT CÔNG TÀO
ĐIỀU THỨ BA:
Điều thứ Ba tiền tài xem xét
Sổ sách đều biên chép rõ ràng
Chẳng chút lòng khi dối ẩn man([22])
Đừng tiêu ít ghi gian thêm thiếu
Lòng chẳng khá thâu đa nạp thiểu([23])
Một mảy lông chớ chịu tiếng tà([24])
Đối đãi nhau lớn nhỏ thuận hòa
Trên dạy dưới lễ ra nghiêm chánh
Nhỏ can trên chớ buông tâm tánh
Gìn cho tròn đạo Thánh đừng hư
Ngày xét xem lỗi dữ cải trừ
Noi hiền thánh khư khư giữ vẹn([25])
Đặng sửa giồi tâm đức thuần quen.
Đức THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ
ĐIỀU THỨ TƯ:
Bốn tránh đừng diện thị bối phi([26])
Trước mặt người giả bộ kỉnh vì([27])
Sau lưng lại khinh khi chẳng nể
Chớ nham hiểm thấy người tồi tệ
Ngồi ngắm xem không kể sửa ngăn
Gìn tấm lòng giữ mực thăng bằng
Chẳng thiên vị mới rằng công chánh
Đừng bày của tư riêng lường gạnh
Sanh lòng tà ngoan ngạnh([28]) người trên
Kẻ dưới quyền hiếp chế sao nên
Lời ngay thẳng nói lên rằng vạy
Miệng chuốt ngót([29]) giục người làm quấy
Tánh sân si lừng lẫy dọc ngang
Trái quy điều sét đánh hồn tan
Đọa mạt kiếp khôn toan([30]) chuyển thế([31]).
Đức THÁI BẠCH KIM TINH


[1] Theo tài liệu của tiền bối Nguyễn Minh Thiện (Minh Lý Thánh Hội). Chưa rõ lai lịch của Thương Châu Tử.

[2] hổ: hổ thẹn, tự cảm thấy mình kém cỏi.

[3] điều độ: phân tách phải quấy, đúng sai.

[4] thánh sở: cơ sở của Đạo (thí dụ: thánh thất, thánh tịnh, hay cơ quan Đạo).

[5] cừu: thù hằn, giận hờn.

[6] Trần Quốc Tuấn (1226-1300) là con Trần Liễu (1211-1251). Năm 1237, chú Trần Liễu là Trần Thủ Độ (1194-1264) bắt vợ Trần Liễu đang có thai phải làm vợ của Trần Cảnh (1218-1277) là em Trần Liễu. Khi vua Trần Thái Tông (tức là Trần Cảnh) chống giặc Mông Cổ thì Trần Hưng Đạo (tức là Trần Quốc Tuấn) bỏ qua mối thù của cha mà hết lòng giúp vua chống giặc. Mỗi khi đi gần vua, Trần Hưng Đạo hay cầm theo cây gậy có bịt đầu sắt nhọn. Về sau lại e rằng vua nghi ngờ, Trần Hưng Đạo tháo đầu sắt ra vứt bỏ.

[7] Ngày xưa có người con chí hiếu. Anh bận đi làm nên để con trai ở nhà cho ông nội dạy cháu học. Ông nội tánh quá nghiêm khắc, thường đánh đòn trẻ rất đau. Anh con trai xót xa cho con nhưng không dám nói hỗn với cha. Một hôm, anh đi làm về đúng lúc ông nội đang cầm roi đánh cháu quá đáng. Anh bèn chạy lại giằng lấy cây roi trên tay cha mình, vừa tự quất vào người mình thật đau vừa khóc mà nói: “Cha đánh đòn con trai của con thì con cũng đánh đòn con trai của cha đây.” Ông nội thấm thía, từ đó về sau đổi cách dạy cháu nội.

[8] vụ riêng: mưu cầu lợi ích riêng tư.

[9] dễ dưới: khinh thường kẻ dưới.

[10] yểm tài người: che giấu tài năng người khác, không giúp họ phát huy tài năng.

[11] Ngày xưa thái úy Tô Hiến Thành đã làm đúng như điều quy này. Vua Lý Anh Tông sắp mất (1175), gởi thái tử Long Cán (là con bà thái hậu họ Đỗ) cho thái úy Tô Hiến Thành trợ giúp. Thái hậu Thiên Linh sai người mang một mâm vàng tặng Tô Hiến Thành, nhờ ông giúp con bà là Long Xương lên ngôi vua. Tô Hiến Thành từ khước, vẫn lập Long Cán lên làm vua Lý Cao Tông. Khi Tô thái úy bệnh nặng (1179), quan tham tri chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm hết lòng chăm sóc. Đỗ thái hậu và vua Lý Cao Tông đến thăm và hỏi sau này ai có thể thay vào vị trí của ông được. Thái úy đề cử quan gián nghị đại phu Trần Trung Tá. Bình thường trong triều Trần Trung Tá vì tánh thẳng thắn vẫn hay nói trái ý Tô thái úy. Thái hậu ngạc nhiên hỏi: “Sao không cử Vũ Tán Đường?” Thái úy đáp: “Nếu cần người hầu hạ thì chọn Vũ Tán Đường. Muốn trị nước an dân thì chọn Trần Trung Tá.”

[12] Nguyễn Minh Thiện, Tứ Đại Điều Quy. Sài Gòn: Minh Lý Đạo, nhà in Nguyễn Đức, 1950, tr. 2.

[13] vưng thửa dạy truyền: vâng theo lời người ấy (thửa) truyền dạy.

[14] điều hộ: giúp đỡ.

[15] pháp độ: khuôn phép, chế độ, quy tắc…

[16] sai thố: sai lầm.

[17] tiền phi: lỗi lầm cũ, điều sai trái trước kia.

[18] năng kiệm dụng: hay tiết kiệm trong việc tiêu dùng.

[19] nhơn ngãi: nhân (lòng thương người) và nghĩa (việc phải, việc đúng đạo lý).

[20] thù chạ: oán chạ thù vơ, thù oán nhỏ mọn vì những chuyện không đâu.

[21] ẩn mai: che giấu (ẩn) và chôn lấp, vùi dập (mai).

[22] ẩn man: che giấu (ẩn) và lừa gạt dối trá (man).

[23] thâu đa nạp thiểu: nhận của người đóng góp thì nhiều nhưng nộp lại cho quỹ chung của cơ sở thì ít (bớt lại cho vào túi riêng).

[24] tiếng tà: mang tiếng bất chính, gian tà.

[25] khư khư giữ vẹn: giữ gìn trọn vẹn và không buông lỏng.

[26] diện thị bối phi: trước mặt (diện) thì nói phải mà sau lưng (bối) thì nói trái.

[27] kỉnh vì: kính trọng và vị nể nang.

[28] ngoan ngạnh: bướng bỉnh, chống báng lại.

[29] chuốt ngót: nói ngon nói ngọt dụ dỗ người.

[30] khôn toan: không mong.

[31] chuyển thế: đầu thai sang kiếp khác.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét