• 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
 Bài mới nhất

Thứ Năm, 1 tháng 3, 2012

Tận-Thế và Hội Long-Hoa


Ngày Tận-Thế chắc-chắn sẽ đến

Vấn-đề-Tận-Thế kể ra chưa hẳn là một đầu-đề mới lạ, vì từ lâu ở trong sấm kinh của nhiều tôn-giáo đã từng nói đến, nhưng ít ai để ý, hoặc-giả có quan-tâm chăng là những người ở trong tôn-giáo.
Vừa rồi ông Daniel Walther một ông nghè mà cũng là tin-đồ Cơ-đốc Phục-lâm đem đầu-đề ấy làm một cuộc diễn-giảng, tưởng cũng nên biết qua những lý-lẽ của ông trình-bày và nhơn dịp này đem đối-chiếu với bao nhiêu lời tiên-tri trong các sấm kinh mà từ lâu ít ai nói đến.

Vào đề ông Walther nhấn mạnh về những biến-cố xã-hội, kinh -tế, chánh-trị của thời-đại chúng ta, dồn dập đến đổi các nhà quan-sát cũng phải hoang-mang không biết ngày mai xảy ra những việc gì. Những nhà bác-học, những nhà phát-minh, đứng trước thời cuộc nghiêm-trọng đến phải bi-quan mà cho rằng ngày Tận-Thế sắp xảy ra và trở lại ghê-tổm cho công-trình phát-minh của mình.

Nhưng nên hiểu thế nào là Tân-Thế ?

Ông Walther không đồng ý với các nhà bác-học kia hiểu Tận-Thế là một cuộc chấm dứt vũ-trụ hay địa-cầu. Theo ông, khi nói Tận-Thế có nghĩa là chấm dứt một thế-hệ do con người cai-quản để mở ra một thế-hệ minh-triết dưới sự chưởng-quản của Chúa.

Vào thời của Chúa, một hôm tin-đồ có hỏi Chúa rằng: “Thế nào là điềm Ngài giáng-lâm và Tận-Thế ?”

Chúa cho biết: “Sẽ có những điềm trên Trời, trên mặt trăng và các vì sao. Trên quả địa-cầu thì nhiều nơi sẽ có bệnh dịch và nạn đói…sự đau thương ở các nước không biết làm gì…con người thì tinh thần khủng -hoảng trong sự mong chờ những điều xảy đến cho trái đất.”

Về những thời-triêu ấy, ông Walther dẫn chứng bao nhiêu bằng-cớ đã xảy ra. Nào là nạn đói kém đã đe doạ hoàn-cầu: Hy-lạp, Nhựt-bản, Trung-hoa, Ấn-độ, Nga…nào là những trận động-đất một ngày một lan rộng, phá huỷ bao nhiêu công-trình kiến-trúc và giết hại biết bao sinh-linh vào thế-kỷ thứ XVIII. Người ta phải hoảng-hốt tự hỏi tại đâu có sự sát hại ấy, và sát hại để làm gì? Nào là những điềm Trời đã xảy ra ứng với lời tiên-tri của Chúa như cuộc thiên ám địa-hôn ở thành Lisbonne năm 1755 những vì sao băng mà ông J.H Fabre đã tường thuật.

Nhưng càng thảm-khốc và khủng-khiếp hơn nũa là những cuộc chiến-tranh, những thảm hoạ xảy ra ở các nước.

Trong thế hệ gần đây, loài người đã bước vào một thời-kỳ chiến-tranh tàn-sát ghê-gớm, Liên tiếp không có lúc nào loài người không giết nhau; nào là trận giặc Tôn-giáo, trận giặc một trăm năm, những cuộc cách mạng giết hại nhân-loại không biết cơ-man nào mà kể. Khi phát-minh thuốc súng và sử-dụng đại-bác trong chiến-tranh, người ở thời-kỳ ấy phải kinh-khủng mà thấy cuộc tàn-sát đã đạt đến một phạm-vi quá rộng.

Nhưng nếu đem sánh với các cuộc phát-minh cận-đại, người ta mới hoảng-hốt với sức tàn-phá sát hại của bom nguyên-tử, khinh-khí là bực nào. Gần đây Tổng thống Mỹ-quốc còn tuyên bố sẽ đem dùng một thứ bom có thể giết hại 150 ngàn sinh-mạng dễ như chơi, sức tàn phá của nó bằng cả 20 ngàn tấn chất nổ.

Ông Walther còn dẫn lời tiên-tri của nhà bác-học Berthelot viết từ năm 1869 cho biết rằng: Trong vòng một trăm năm, khi mà người ta phát –minh được nguyên tử-lực thì chính đó là thời - kỳ tiêu-diệt.

Một điềm thảm khốc cho nhơn-loại nữa là nạn đói hoành-hành trên thế giới. Một con số không ai ngờ được là đã có 7 triệu người chết về nạn đói. Trong lúc ấy, trái lại dân số tăng gia quá sức tưởng-tượng cho đến nguồn tài-nguyên không đủ cung cấp, mặc dầu đã bị giết hại vì chiến tranh, vì bịnh dịch…
Tình thế xã-hội đã vô cùng khốc-liệt, người ta nhận thấy càng ngày càng tiến đến chỗ sụp-đỗ và tinh-thần con người càng ngày càng hư-hỏng suy-đồi.

Nhưng ông Walther không lấy đó làm bi-quan, vì con người vẫn chưa đến tuyệt-vọng. Ông cho biết hiệu lực vô biên của một niềm hy vọng. Có nhận thấy sự an vui trong lòng và một nguồn hy-vọng không lay chuyển chăng, là những ai đã biết đặt đức-tin của mình vào những giá-trị tinh-thần và vào sự giáng-lâm của Đấng Cứu-Thế, là con đường duy nhứt, là chơn-lý và là sự sống.

Nhưng ngày nào Đấng Cứu-Thế ra đời, ngày nào mới Tận-Thế ? Không ai có thể biết được ngày giờ, chỉ trừ ra Chúa, Ngày Tận-Thế chắc chắn sẽ đến.

Những điềm xảy ra ở trên Trời, trên quả địa-cầu, trên xã-hội loài người, nhứt là những tai hoạ và đau-khổ dập dồn đưa đến cho nhơn-loại, là những báo hiệu cho thời giờ đã cận rồi. Hãy nhìn lên Trời để theo dõi những biến động của vũ-trụ, hãy nhìn thời-triệu thì hẳn thấy ngày Tận-Thế đã gần lắm rồi. Hiện-trạng ngày nay không thể kéo dài hơn nữa.

Tận-Thế đã gần chưa ?
Đó là quyển sách của ông Joseph Monnier viết, do Hội Cơ-đốc phục-lâm cho phát-hành, mà chúng tôi xin lược-thuật dưới đây:
“ Kính Chúa, xin Ngài cho chúng tôi biết chừng nào sẽ đến và thế nào là điềm Ngài giáng-lâm và ngày Tận-Thế ?”
Đó là câu hỏi quan-trọng mà các tín-đồ một hôm ngồi trên núi Oliviers hỏi Chúa. Ngài bèn giảng cho nghe về sự bền-bỉ của mọi vật ở dưới cõi đời này và cho biết trước cuộc tàn phá thành Jérusalem và giáo-hội của nó.

Nhưng ngày nào Chúa trở lại ? Đó là điều không khoản nào trong kinh thánh cho biết trước . Nếu nói rằng người ta không thể biết gì hết và không có điềm nào báo trước ngày giáng-lâm cấp-bách của Chúa Cứu-Thế, tức là không hiểu khi Chúa phán : “ Các ngươi hãy hiểu bằng sự tỷ-dụ về cây vải. Khi cành nó trở nên non xanh và lá mọc ra, các ngươi biết đó là mùa hạ đã gần. Cũng như khi các ngươi thấy mọi điều ấy thì nên hiểu rằng Chúa của loài người đã đến gần bên cửa.”
Nhưng có điềm nào báo rằng Chúa đã đến gần bên cửa ?


NHỮNG ĐIỀM DƯỚI ĐẤT. Hãy nhìn trở ngược lại, chúng ta nhận rỏ nguyên-do và ý-nghĩa của những cuộc nhiễu-loạn trong trật-tự thiên-nhiên. Nổi loạn chống lại Chúa và luật của Ngài, con người cũng như trái đất, đã trở thành một đối-tượng của sự bất-hạnh rồi. Cho nên, ngay từ đó, trái đất sản-xuất những lau sậy và gai gốc, và con người phải làm hết sức mình mới kiếm được miếng ăn. Mỗi bước vượt qua luật tinh-thần và tự nhiên là dìm nhơn-loại trong một trạng-huống thấp hèn và yếu đuối về tinh-thần và vật-chất.

Con người từ đó trở đi không còn được chết thoả-thích như ông bà tổ-tiên nữa, mà bị xâm chiếm, cuốn lôi đi bởi tật bịnh, và nhơn-loại sẽ tàn tạ bởi những dịch bịnh một ngày một nhiều và ghê-gớm. Tuổi thọ sẽ xuống dốc và sự sanh-sản thì đầu-hàng trước những tấn-triển đáng lo ngại của nạn rượu, bịnh phong-tình, ho lao, ung thư…
Người ta càng tiến gần đến thời-kỳ mà Thánh-kinh gọi là “ thời giờ cuối cùng” hay “ ngày cuối cùng” thì những điềm ấy càng trở nên thống khổ.
Quả đất chừng nào hoà-hợp với sự hỗn-độn ấy. Không còn mùa tiết nữa. Trận địa-chấn càng ngày càng nhiều, gieo sự hỗn-loạn, chết chốc…
Người ta kể không dưới 14 triệu sinh-linh đã chết trong những trận địa-chấn từ ngày Chúa cho đến nay. Một lần nữa, lời của Chúa được xác-nhận trong câu tiên-tri :“ Sẽ có những cuộc địa-chấn ở mọi nơi” .
Những biến-cố này là triệu-chứng của sự suy yếu, nó dạy ta rằng trái đất đã già-cỗi cũng như một chiếc áo, hay lảo đảo như một cái chòi, vì tội của nó đã đè nặng lên nó. Một điều nữa là tiền bạc đã mất giá-trị và những kẻ tôn thờ nó sẽ lâm vào nạn khủng-hoảng.
Nhân loại sẽ lâm vào tình-trạng hỗn độn.Dầu xây qua bên nào, người ta cũng gặp những tiếng uất-hận, thở than, thoi-thóp của một thế-giới sắp tàn nhưng không muốn chết.

NHỮNG ĐIỀM TRÊN TRỜI. Chúa đã cho biết: Các ngươi sẽ thấy “ những điềm trên mặt trời, trên mặt trăng và trên các vì sao” và Chúa thêm rằng : “ Liền sau những ngày nguy-cấp ấy, mặt trời sẽ tối đi, mặt trăng sẽ không có phát ánh-sáng, các vì sao sẽ rơi rụng, và quyền-lực của các cõi trời sẽ lung lay.”
Và một điềm lạ-lùng là cuối thế-kỷ XVIII đã xảy ra điềm thứ nhứt mà Chúa đã báo trước: đó là cuộc thiên ám địa hôn.
Ông Herschel, nhà thiên-văn-học đã nhận thấy điều ấy, có nói: Ngày thiên ám địa hôn ở Bắc Mỹ là một hiện-tượng kỳ-dị của tạo-hoá mà không một nhà triết-học nào có thể cắt nghĩa được.
Về vấn-đề này ông Noah Webster , tấn-sĩ luật nước Anh, cho biết:
Ngày thiên ám địa hôn hôm 19 Mai (tháng 5) 1780 bao trùm cả nước Anh trong ngày ấy. Ở nhiều nơi, ngay ở nước ngoài trời cũng không đọc được một chữ thường, điều đó xảy ra trong nhiều giờ liên-tiếp. Chim chóc thì hót những giọng về chiều, ẩn núp và trốn về tổ luôn; gà vịt thì kéo nhau lên gác; thú vật thì kéo vào chuồng, còn trong nhà thì phải thắp đèn. Cuộc thiên ám địa hôn này bắt đầu từ mười giờ mai cho đến nữa đêm sau…
Điềm thứ hai mà Chúa báo trước mặt trăng mất ánh-sáng.
Báo Independent Chronicle ở Boston, ngày 8 Juin 1780, có kể:

Trong thời-gian ấy một màu đen bao phủ vạn vật. Sự hôn ám của đêm này không phải là chẳng thường thấy và khủng-khiếp như điềm xảy ra ban ngày. Trăng tuy tròn hay hơi tròn, mà người ta chẳng thấy vật, nếu không nhờ ánh đèn.

Điềm trời thứ ba là nhiều vì sao rơi rụng. Hiện tượng đã xảy ra ngày 13 Novembre (tháng 11) 1833, Bác-sĩ Seiss đã tường thuật:
Những người được diễm-phúc trông ngắm các vì sao rơi rụng đêm 13 Novembre 1833 có thể đã dự một cuộc đốt pháo bông vô cùng uy-nghiêm mà từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa từng có, hay ít nhứt từ thời-kỳ có sử. Về mặt lan rộng, hiện-tượng đã bao trùm một phần lớn mặt địa-cầu, từ giữa Đại-tây-dương phía Đông cho đến Thái-bình- dương phía Tây và từ bờ Mễ-tây-cơ phía Nam cho đến vùng vô-định của Gia-nã-đại phía Bắc. Cảnh tượng rất rõ và nơi nào cũng thấy rõ như thế.
Trong ba giờ xảy ra, hàng trăm hàng vạn người thấy trong hiện-tượng ấy, sự hoàn-thành lời tiên-tri của Chúa. Họ dều hoảng-hốt. Chừng như các vì sao ấy thình-lình thay hướng để rơi xuống trái đất. Những người mục-kích cảnh-tượng này đều mô-tả như là một sự uy-nghiêm ghê-gớm.
Đó là điềm tiên-tri của Chúa. Nó đã hoàn-thành. Bây giờ chỉ còn chờ ngày giáng-lâm của Chúa.
Nhân-loại có biết hưởng và có hiểu rằng: “Chúa không chậm trễ trong sự hoàn-thành lời hứa, cũng như nhiều người tin rằng: Ngài kiên-nhẫn đối với chúng ta, không muốn một ai phải chết, mà muốn cho mọi người tiến đến sự hối cải”.

Chúa còn dặn những ai trông chừng: “Khi những việc ấy khởi sự đưa đến, các ngươi hãy trổi dậy mà ngước đầu ngó lên, vì sự giải-thoát của ngươi đã đến”.

Những điều tiên-tri này có giống các tôn-giáo khác chăng ? Và ngày Tận-Thế gần chưa ?

Chương thứ II: Phật-Giáo
Thời-kỳ Phật Di-Lạc ra đời

Về vấn-đề Tận-Thế, trong các kinh Phật cơ-hồ không có đề-cập đến, mà chỉ thường nói đến định luật: thành, trụ, hoại, không của vũ-trụ vạn-hữu là nhiều. Song trong kinh Phật có cho biết rằng: ở khoản đời hiền kiếp kể có năm vị Phật là : Câu-lưu-tôn Phật, Câu-na-hàm Phật, Ca Diếp Phật, Thích-Ca Mâu-Ni Phật và Di-Lặc Phật. Cứ theo lời Phật Thích-Ca mách trước trong kinh thì sau này vào đời-mạt-pháp sẽ có Phật Di-Lặc ra đời là một vị Phật thứ năm trong hiền-kiếp để nối ngôi Phật Thích-Ca giáo-hoá chúng sanh.

Chừng nào Phật Di-Lặc ra đời ? Đó là một câu hỏi mà đến nay chưa thấy kinh nào định rõ ngày giờ.
Nhưng chiếu theo nhiều kinh điển đã có trong đạo Phật để mà xét đoán, thì lúc Phật Thích-Ca còn đương tiền thuyết-pháp cho đến sau khi nhập-diệt tới nay chia ra ba thời-kỳ là: chánh-pháp, tượng-pháp, và mạt-pháp.

Thời-kỳ, Chánh-pháp là thời-kỳ đức Phật còn tại tiền thuyết-pháp, các đồ chúng rất tinh-tấn hành y theo Phật-pháp, cho nên phần đông được ấn chứng Phật-quả Thời-kỳ này phỏng được năm trăm năm sau khi Phật nhập Niết-bàn.

Thời-kỳ Tượng-pháp là Thời-kỳ sau khi Phật nhập diệt năm trăm năm, có các vị tổ được truyền y bát thỉnh-thoảng nối nhau mà xiển-dương Phật-pháp, các đồ-chúng nhờ đó mà tu hành đắc quả có nhiều, song không bằng thời Chánh-pháp. Thời kỳ này dai-dẳng được một ngàn năm.

Thời-kỳ Mạt-pháp là thời-kỳ sau một ngàn năm của thời Tượng-pháp, Phật-pháp suy vi, đồ-chúng lảng mất chánh-tín quay lại tà-tưởng mà chia xẻ nhau ra từng khối rồi mạnh ai nấy lo tranh danh đoạt lợi bỏ luống Phật-pháp, cho nên ít có người được chứng quả. Thời-kỳ này kéo dài cả 10.000 năm.
Như thế, nếu chiếu theo Phật lịch năm nay 2515 năm, thì đây là tới lúc của Phật Di-Lặc giáng sanh.

Nhưng sự phân-định thời-gian ây có quả đúng chăng ? Và thời-kỳ Mạt-pháp diễn ra thế nào để nhận-thức đã đến hay chưa đến ? Và ngoài Đức Phật Di-Lặc ra còn vị nào ra đời cứu-vãn cho thời-kỳ ấy nữa chăng ?
Trong kinh Pháp-trụ có kể rằng:
“ Hồi Phật gần nhập Niết-bàn có di chúc với ngài A-Nan rằng: Sau ta diệt rồi, đến đời mạt-pháp các môn-đệ của ta bỏ các giáo-pháp, cứ tập theo cái thuyết không chánh-đáng, chẳng chịu tu giới, tu huệ lại nhóm nhau những đồ hung đảng ác, thấy ai có giữ được giới hạnh thì sỉ-nhục chê-bai. Vì cớ ây nên các vị Thiên-long buồn sầu mà xa lìa, còn các vị Đại-Thần và Trưởng-giả thì không sanh lòng tin kính Tam-bảo, làm cho chánh-pháp muốn diệt.

“Từ đó về sau đám Tỳ-kheo ấy tạo ác càng ngày càng lắm ; rồi nhờ có những người Tỳ-kheo khác biết giữ gìn sự thanh-tịnh tu hành, lại đem giáo-pháp của Như-lai mà diễn nói cho loài hữu-tình nghe, làm cho cả thảy đều được phần lợi-ích.

“Khi ấy lại có các vị Quốc-vương, Đại-thần, Trưởng-giả, Cư-sĩ và những thiện-nam tín-nữ đều sanh lòng thương tiếc chánh-pháp của Phật, thờ phượng ngôi Tam-bảo cúng-dường cung kính, tôn-trọng ngợi khen hết lòng hết sức ra hộ-trì cho đặng trùng-hưng. Đó là các vị Bồ-tát lấy cái bổn-nguyện rất to lớn mà sanh ra đời ấy đặng giữ gìn Phật-pháp và làm ích-lợi cho chúng-sanh như vậy.”

Xem thế rồi nhìn lại cuộc đời hiện nay không khỏi khiến cho người đời ban-khoăn sanh ra nghi-vấn.

Huống chi, khi đọc qua kinh Đại-tập, về khoảng phân định thời kỳ sau Phật diệt độ càng làm cho người ta phân vân hơn nữa. Cứ theo kinh Đại- tập, thời-kỳ sau khi Phật tịch-diệt chỉ có hai ngàn năm trăm năm, phân làm năm thời-kỳ như sau:

Một là năm trăm năm thứ nhứt, thuộc về thời-kỳ Giải-thoát kiên-cố, nghĩa là trong thời-kỳ này những người Đạo-nhơn căn-tánh cao siêu, trí-tuệ sáng suốt y theo giáo-lý của Phật mà tu hành, đều tuỳ theo phẩm-hạnh mà chứng pháp giải-thoát.
Hai là năm trăm năm thứ hai, thuộc về thời-kỳ Thiền-định kiên-cố, nghĩa là trong thời-kỳ này, phần nhiều hành-giả căn-tánh tinh cần, trí-huệ điềm-tịnh, y giáo-lý mà tu tập các pháp thiền-na, đều tùy theo phẩm-hạnh mà chứng đặng định-quả-hữu-lậu hay vô-lậu của hàng Đại-thừa hay Tiểu-thừa.

Ba là năm trăm năm thứ ba, thuộc về thời-kỳ Đa-văn kiên-cố, nghĩa là trong thời-kỳ này phần nhiều hành-giả tâm-tánh sáng láng, tánh chất lanh lợi, y theo mười hai bộ kinh của Phật dạy mà tu hành, hiểu thấu các môn giáo-lý hạnh quả và các phép đốn tiệm.
Bốn là năm trăm năm thứ tư, thuộc về thời-kỳ Tháp-tự kiên-cố, nghĩa là trong khoản thời-gian ấy, phần nhiều những người học đạo căn-tánh hẹp-hòi, chí-hướng cạn-cợt, chẳng gắng công tu tập, chỉ ưa làm mọi sự hữu-vi, đem của riêng mà lập chùa xây tháp, đúc Phật ấn kinh. Vậy nên sau khi lâm-chung nhờ phước duyên ấy mà hưởng quả-báo nho-nhỏ trong cõi Nhơn-Thiên.

Năm là năm trăm năm thứ năm, thuộc về thời-kỳ Đấu-tranh kiên-cố , nghĩa là trong thời-kỳ này, phần nhiều những kẻ tu hành, tâm hay háo thắng, ý thường ganh ghét, tuy là đồng tu một tôn-giáo mà đối đãi nhau như kẻ ngoại đạo. Nhứt là chấp chỗ học-vấn của mình là phải mà cho sự kiến giải của người ta là sai.

Cứ theo kinh Đại-tập thì năm thời-kỳ này kéo dài cả đến hai ngàn năm trăm năm. Và theo Phật-lịch thì năm nay là năm 2515. Càng làm cho người đời băn khoăn hơn nữa là khi đem so-sánh thời-kỳ Đấu-tranh kiên-cố với hiện tình, lòng không khỏi ngạc-nhiên mà nghi quyết cho lúc này đã lọt trong thời-kỳ mạt-pháp rồi và sắp đến giai-đoạn của Phật Di-Lặc ra đời giáo đạo trong một ngày gần đây.

Nhưng điều mà hầu hết giới người tu hành muốn biết khi Phật Di-Lặc ra đời, xã-hội loài người vẫn còn giữ nguyên--trạng hay có cuộc biến-thiên.
Cứ theo kinh-điển thì mỗi khi có một vị Phật ra đời là có mở Hội hoá-độ. Như Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật có lập Liên-Trì hội, Đức Phật Thích-Ca thì mở Hội Linh-Sơn để cu-hội các bực La-Hán và Bồ-tát. Đến Phật Di-Lặc cũng thế. Hội của Ngài sẽ lấy tên là Hội Long-Hoa bởi ngài ngồi dưới cội cây Long Hoa mà đắc đạo. Chính vì đó mà Hội của Ngài sẽ lấy tên là Hội Long-Hoa.
Mặc dầu trong kinh Phật không nói đến Tận-Thế, nhưng khi biết rằng sau này Phật Di -Lặc ra đời nối ngôi Phật Thích-Ca lập ra Hội Long-Hoa hoá-độ chúng sanh và quốc-độ của Phật Di-Lặc vô cùng trang-nghiêm khác hẳn cõi Diêm-phù-đề này tức là quả địa-cầu của chúng ta đang ở không khỏi khiến nhiều người phải tự hỏi: cõi Diêm-phù-đề sẽ trở thành quốc-độ của Phật Di-Lặc bằng cách nào ? Nếu không phải là một cuộc Tận-Thế hay là cuộc thay đổi địa-hình, hay xê-dịch-vị-trí của quả địa-cầu ?

Trong kinh Di-Lặc, Phật cho biết rằng: sau này Phật Di-Lặc hạ sanh lấy hiệu là Từ-Thị. Quốc-độ của Ngài là một quốc-độ vô cùng trang-nghiêm. Lầu đài đều làm bằng bảy báu. Đâu đâu cũng có ao trong, có đủ thứ hoa thơm. Mặt đất thì bằng phẳng chẳng có gai gốc, chỉ mọc toàn cỏ nhuyễn xanh, người đi cũng như đi trên thảm. Người sanh vào cõi này đều là người có duyên lành, sống một đời vô cùng an-lạc, không đau khổ bịnh tật, phiền-não. Thân hình đầy đủ oai nghi đẹp-đẽ, sống lâu đến mươi ngàn tuổi, có đủ các thứ mỹ-vị ngon lành, còn mặc thì khỏi cần phải dệt, vì có thứ cây sanh ra quần áo. Đến khi hết số phần thì vào rừng dành cho người đến đó nằm an nghỉ luôn.

Trong nước thì:
Thảy trong bốn biển bình yên,
Không hay chiến đấu cung tên chẳng dùng.
Bủa ra chánh-pháp trị chung,
Đem nền bình-đẳng rộng dung giáo đời.
(Bản dịch của Đoàn Trung Còn)
Nhưng điều phước huệ nhứt ở đời đó là chúng sanh được Phật Di-Lặc mở ra ba kỳ thuyết-pháp hoá-độ các linh-căn:
Kỳ đầu, thuyết-pháp phổ-thông,
Độ Thinh-văn chúng rất đông, rộng nhờ.
Chín mươi sáu ức con người,
Chẳng còn phiền-não bít nơi, ngăn đường.
Kỳ nhì, thuyết-pháp tỏ tường,
Cũng là độ rộng các hàng Thinh-văn.
Chín mươi bốn ức mạng căn,
Được qua khỏi biển tối tăm mê mù.
Kỳ ba, thuyết-pháp rộng sâu,
Độ Thinh-văn chúng sồ hầu cũng đông.
Chin mươi hai ức bổ đồng,
Tâm điều, ý phục, một lòng kính xưng.(1)
Trong quyển Qui nguyên Trực chỉ, Đức Tông-Bổn cũng cho biết sau Phật Thích-Ca là đến Phật Di-Lặc ra đời, lập Hội Long-Hoa mở ra ba trường thuyết-pháp hoá-độ các bực A-La-Hán. Người sanh ra ở quốc-độ ấy sẽ:

“Sống lâu đến tám muôn tuổi, thân cao 16 trượng, tướng dạng nghiêm-trang, không người xấu xa, con gái đến năm trăm tuổi mới lấy chồng.

“Đời đó không có tai hoạ cũng không lạnh nực , cửa nẻo chẳng gài, không trộm cướp, y-phục hoá-sanh chẳng sự khó nhọc, vàng bạc châu báu đầy kho không người coi giữ, đất kia bằng thẳng không có gò hố, trên đất mọc cây hình tựa rồng vàng, trên hình rồng trổ bông nên kêu là Long-Hoa thắng-hội, nhân dân ở cõi đó cũng như cung Trời thong-thả, trên cõi lợi-thiên.

“Chỉ có sự khổ chẳng đặng trọn hưởng vui-vẻ: một là ăn uống, hai là lợi-tiện, ba là suy lão; bằng khi lợi-tiện thì đất nứt ra, tiêu rồi đất bèn hiệp lại, trên mọc hoa sen đỏ, che chở mùi hôi; người hầu lâm-chung đến chỗ huyệt mà chết; thần-thức sanh về cõi Trời, chẳng sa thú dữ. Bởi cớ sao ? Là bởi người cõi ấy đều làm việc lành, cho nên sanh về cõi Trời.

“Đức Di-Lặc Phật, hội ban đầu nói phép, chín mươi sáu ức người đặng quả A-La-Hán, ba mươi sáu muôn vị Thiên-nhân Bát-bộ phát tâm Bồ-đề, lại có nhiều người đặng bực nhị thừa tứ quả. Đại hội thứ hai nói phép, chín mươi bốn ức người đặng chứng quả A-La-Hán, sáu mươi bốn ức vị Thiên-nhân Bát-bộ phát tâm Bồ-đề, lại có nhiều người đặng bực nhị thừa tứ quả. Đại hội thứ ba nói phép, chín mươi hai ức người đặng quả A-La-Hán, ba mươi bốn ức vị Thiên-nhân Bát-bộ phát tâm Bồ-đề, lại có nhiều người đặng bực nhị thừa tứ quả.
“Đức Di-Lặc trụ thế sáu muôn tuổi thuyết-pháp độ chúng-sanh; khi Ngài trở lại cõi Niết-bàn rồi, chánh-pháp trụ thế cũng như vậy, tượng-pháp trụ thế cũng như vậy. Việc Long-Hoa tam hội nói sơ như vậy, còn nghĩa-lý mầu-nhiệm, đều đủ trong kinh văn thuật hết chẳng đặng vậy”.(Bản in của Thạnh Mậu)

Từ trên nhẫn đến đây cả bộ Kinh Di-Lặc và quyển Qui nguyên Trục chỉ, chỉ nói qua Hội Long-Hoa và quốc-độ của Phật Di-Lặc, chớ không nói đến cuộc chuyển-biến cõi Diêm-phù-đề ra quốc-độ của Phật Di-Lặc ra làm sao ?

Duy có Hứa-sử truyện, trong đoạn nói Hứa-Sử bị bắt lầm xuống Diêm-Vương, có nói đến sự chuyển-biến ấy, bằng mầy câu thơ này:

Rồi đây trở lại Dương trần,
Rằng ta nhắn bảo nhân-dân trên đời.
Từ đây sắp xuống khốn nàn,
Đến sau hoại kiếp tiêu tan Đất Trời,
Sau Di-Lặc Phật ra đời,
Ba tràng thuyết-pháp độ người thiện-căn,
Phước duyên thọ mạng bội tăng,
Long-Hoa sanh hoá, mặc ăn lo gì.

Những quan-điểm này sẽ được xác-nhận trong sấm kinh của Cao-Đài-giáo và Phật-giáo phái Phật-Thầy Tây-An.


Chương thứ III: Cao-Đài-Giáo

Với Cao-Đài-Giáo thì danh-từ Tận-Thế và Hội Long-Hoa không còn xa lạ nữa. Trong quyển Đại-Thừa Chơn-Giáo, hai danh-từ này được nhắc đến luôn.

Sở-dĩ các đấng thiêng-liêng xuông cơ mở đạo, cũng chẳng qua là báo trước cho người trần biết cơ tận-diệt đã hầu kề và Hội Long-Hoa sắp mở, để thức tỉnh người đời trở về con đường đạo-đức cho kịp Hội Long-Hoa.

Bởi thế trong bài Thánh-tựa là bài đầu của quyển Đại-Thừa Chơn-Giáo, lời kêu tha-thiết trước nhứt là lời:
Minh Chơn-Đạo thời-kỳ mạt-kiếp,
Thức-tỉnh đời cho kịp Long-Hoa.
Luôn luôn danh-từ Tận-Thế, thời-kỳ mạt kiếp được nhắc đến. Dưới đây chúng tôi trích một vài đoạn:
Gần Tận-Thế Ngôi Hai ra mặt
Đặng toan phương dìu dắt chúng sanh
Chỉ đường cội phước nguồn lành,
Giác mê tỉnh ngộ tu hành siêu thăng,
Cuộc tan thương dữ dằn trước đó,
Mà nào ai có rõ chi đâu !
Rồi đây chúng chịu thảm sầu,
Không nương đạo-đức khó hầu tránh tai,
Nạn khổ cuộc tương-lai dữ-dội,
Nhân vật đồng thay đổi tiêu tan,
Có ai thấu máy hành tàng ?
Dinh hư tiêu trưởng rõ ràng không sai.
Và cơ tận-diệt được các đấng thiêng-liêng cho biết đã gần kề, như đoạn:
Nguồn Đạo-Đức thâm vi nhiệm-lý,
Bổn-chơn-truyền lập chí tìm ra.
Máy dinh hư chẳng có bao xa,
Nguồn tận-diệt bày ra trước mắt,
Cuộc xáo trộn Đông, Tây, Nam, Bắc,
Nạn chiến-tranh đạo tặc dẫy tràn,
Ôi !Muôn nhà trăm họ lầm than,
Chịu khốn khổ tai nàn thảm thiết !
Đạo ra đời là đời tận-diệt;
Nên Phật, Tiên cho biết mà tu.
Người thế thường chác những hèn ngu,
Cắm cổ chết trong ngục tù tội lỗi.
Xem đó đủ thấy vấn-đề Tận-Thế đã được Cao-Đài-giáo xác nhận,và ngày tận-diệt cũng được báo nguy là chẳng còn xa, nhưng quyết định thời-kỳ nào thì không thấy nói đến.

Những lý-do về Tận-Thế
Về lý-do gì mà có cuộc Tận-Thế, có cuộc biến-thiên làm cho đời tận-diệt ? Quyển Đại-Thừa Chơn-Giáo cho biết nhiều lý-do mà chúng tôi xin lược trình dưới đây:
1o. Đời sống vật-chất hỗn-loạn. Thứ nhứt là vì loài người càngxu-hướng theo đường vật-chất, bỏ hết đạo-nghĩa.
“Cứ mãi đeo mang lấy thói thấp-thường, chuộng cái hư-danh giả-trá, toan lòng độc-ác, chém giết lẫn nhau vì phân màu da, nước tóc,chỗ ở miếng ăn, chớ không đem bổn-phận làm người đối với nhân-quần xã-hội. Càng ngày càng xa con đường Thiên-lý, bỏ hết sự tự-nhiên thanh-tịnh vô-vi mà mảng đắm say về thực-tế. Điểm linh-hồn phải chịu dưới quyền hành của nhân-dục khiến sai, làm cho càng ngày càng tối-tâm mù mịt thì mong chi thoát khỏi trầm-luân nơi biển khổ được.”

Vì quá chạy theo thị-dục mà lòng người trở nên hung-ác:
Càng ngày chí thiện càng xa,
Nhơn tình đạm-bạc lòng tà dấy lan.
Đời này hung bạo ngỗ ngang,
Lòng người bất chánh,dạ càng bất nhơn.
Nên chi quỉ giận Thần hờn,
Trời ghen Đất ghét chịu cơn thảm sầu.
Hoạ tràn dậy khắp năm châu,
Thiên tai, Địa ách khó hầu thoát thân,
Xanh kia một đấng cầm cân,
Thưởng răn cho kẻ hữu phần, vô duyên,
Thấy đời thêm luống não-phiền,
Vô-hình Phật,Thánh, Thần, Tiên thở dài.
Mà một khi lòng người trở nên hung-ác rồi thì sự giết hại lẫn nhau càng ngày càng thêm chất-ngất.
“Ôi ! đời đã đến thế thì đời chỉ là một trường tranh đấu kịch liệt, một cuộc tàn sát ghê-gớm, nạn khổ dẫy đầy , đao binh chất ngất, đạo-tặc lung-tung cho đến đỗi cùng chung một bọc, cùng chung một nòi mà cũng tương tàn tương sát lẫn nhau cho vừa lòng dục, thì còn chi phong tục kỷ-cương tình-nghĩa.
“Đời đã đến thế thì dầu ai trí cả tài cao bực nào cũng đành thúc thủ vô sách, chớ có thế gì khiến nổi nhơn-tâm dường ấy là đời sắp tận vong tiêu-diệt đó.”
Lý-do về cõi đời sắp tàn-tạ này của Cao-Đài-giáo,chúng ta thấy không khác lý-do về tận-Thế của Cơ-Đốc-giáo.
2o Đời sống tinh-thần suy-đồi. Ngoài lý-do về vật-chất, còn lý-do về tinh-thần cũng là một lý-do làm cho đời con người tiến đến cơ tận-diệt. Quá sùng phụng vật-chất, chỉ biết có vật-chất, nên con người càng mất dần tinh-thần đạo-đức. Các nền đạo-giáo cũng gì đó mà thất chơn-truyền, sa vào lối mê-lầm, hư-hại.
Không kể những đạo-giáo khác, chỉ nhìn vào đạo-giáo ở Đông-phương, cái cơ suy-đồi của tam giáo : Nho-Thích, Đạo đã thấy rõ-rệt lắm rồi.
“1. Đạo Thích, Đạo Thiền bày dị-đoan từ đời Thần-Tú làm mê hoặc chúng-sanh . Vậy cũng phổ-độ, cũng giựt giành mà chỉ đem con người vào đường u-ám, lạc-lầm. Kinh sấm truyền lại mà không khảo-cứu, kiếm tầm cho ra chơn-lý, chẳng định-trí tham-thiền, không gom thần nhập-định.
“2. Còn Nho-giáo, sau đời Mạnh-Tử , càng ngày càng lạc-lầm đường Thiên-lý chẳng cần, chỗ thâm nhiệm không rõ, chỉ học đặng khoe tài hay giỏi, dục-lợi cầu-danh, tổn-nhân ích-kỷ, chớ không chịu học để sửa mình, tầm hiểu cho tột cùng cái lý cao-siêu huyền-bí cái cơ nguồn cội muôn loài.”
“3. Còn Đạo-giáo là huyền-bí, thậm chí ư huyền-bí, chỉ có người bực thượng-trí mới thấu đáo chỗ căn, nguyên, còn bực thường-nhân hạ-trí rất khó thông cơ mầu-nhiệm, bởi vậy mới hiểu lầm. Tưởng sái mà bày ra phép-tắc, phù chú làm cho mê-hoặc thói đời thêm hư phong-tục khiến người nhiễm lấy dị-đoan, nào là hô- phong hoán-võ, tróc quỉ trừ ma, bày binh bố trận, mới biến ra tả-đạo bàn-môn thiệt là rất hại.”
Cái nền tảng vật chất đã hỗn-loạn như thế, nền tinh-thần đạo-đức đả suy-đồi như thế; luật tự-nhiên của vũ-trụ đã sai-lệnh thì đó là nhân-tố đưa đến con đường biến-chuyển đúng với luật tuần-hoàn: hết suy tới thạnh.
3o Lý tam ngươn. “Các con khá biết : Đạo có ba ngươn, ba ngươn ấy là cái số cuối cùng của Trời, Đất. Trước hết mở đầu là THƯỢNG-NGƯƠN.Thượng-Nguơn đây chính là “nguơn tạo hoá” là nguơn đã gầy dựng cả Càn-Khôn Vủ-Trụ. Vậy khi mới tạo Thiên, lập Địa, nhân lọai sanh ra thì tánh-chất con người rất đỗi hồn-hồn ngạc-ngạc, còn đang thuần-phác thiện-lương, nên chi cứ thuận tùng Thiên-lý mà hoà-hiệp dưới trên, tương thân tương ái. Thời-kỳ ấy người người đồng hấp-thụ khí thiên-nhiên, nên hằng cộng hưởng thanh-nhàn khoái-lạc mà vui say mùi Đức tháng ngày. Bởi đó đời thượng-cổ mới có danh là đời THƯỢNG-ĐỨC, mà Thượng-Nguơn ấy cũng kêu là nguơn “THÁNH-ĐỨC” nữa.

"Kế đó bước qua TRUNG NGƯƠN thì nhân tâm bất nhứt, tập quán theo thói đời, thâm nhiễm những nết xấu mới làm cho xa mất điểm thiện lương bèn cậy ở sức mình mà hiếp bức lấy nhau, chém giết lẫn nhau, tương sát, tương tàn, mạnh còn yếu mất thì mới sanh ra biết bao trường huyết chiến, không còn kể đồng loại, đồng chủng, đã lợt tình đồng nghĩa, đồng bào. Bởi đó đời Trung Cổ mới có danh là đời THƯỢNG LỰC, mà Trung Ngươn ấy cũng kêu là Ngươn "TRANH ĐẤU" nữa.
“Tiếp đến HẠ-NGƯƠN, sự tranh đấu ngày càng ráo riết, dữ-tợn, gớm ghê thì nhân-loại lại chê sức mạnh mà dùng não cân, nên mới bày ra chước quỉ, mưu-tà kế sâu, bẩy độc, thiệt là khốc-liệt phi thường. Song đó cũng lẽ tự-nhiên, càng tranh-đấu mới càng tấn-hoá. Ngặt càng tranh-đấu lắm lại càng ác-liệt lắm, nên tranh đấu thét phải đến ngay thời-kỳ tiêu-diệt. Bởi đó đời hiện tại là đời MẠT-KIẾP, còn Hạ-Ngươn này là ngươn “ĐIÊU TÀN” .
“Nhưng hễ loạn là tới tri, vong tất phục-hưng, nên ngươn tiêu-diệt tất sẽ bước đến ngươn bảo-tồn là ngươn Đạo-Đức phục-hưng, để sắp lập lại như đời thượng-cổ, thế nên cũng gọi là ngươn “TÁI-TẠO” .
“Vậy nhân-loại bước qua thời-kỳ này là thời-kỳ qui nhứt-thống, đại luân-hồi của Thiên-địa đó. Mà ngày nay đã đúng số nhứt-định của Tạo-Đoan, đã tới ngươn cuối cùng của Thiên-Địa, vì tính ra thì đã mười hai vạn chín ngàn sáu trăm năm, nên đã tới thời-kỳ tạo Thiên lập Địa một lần nữa.”
Cái lý về tam-ngươn này cũng đồng một lý với Phật sự phân chia ba thời-kỳ của Phật là: Thời-kỳ chánh-pháp, thời-kỳ tượng-pháp và thời-kỳ mạt-pháp.
Như ta đã thấy ở thời-kỳ chánh-pháp là thời-kỳ Phật ra đời phổ-hoá chúng sanh. Chánh-pháp rất thạnh cho nên người sanh ở đời này mỗi tu mỗi đắc. Qua thời-kỳ tượng-pháp là thời kỳ xa dần chánh pháp, cho nên việc tu hành buông lơi, kẻ tu thì nhiều người đắc quả thì ít. Kịp đến thời-kỳ mạt-pháp lại càng xa chánh-pháp không biết bao nhiêu, cho nên việc tu-tỉnh rất bê-trễ.
Con người sanh ra trong thời-kỳ này háo danh háo-lợi, dầu cùng ở trong một tông phái cũng chia phe kết đảng tranh-đấu nhau. Chính vì đó mà con người bước đến chỗ đốn mạt. Song luật tuần-hoàn của vũ-trụ vẫn không bao giờ dứt. Một khi đi đến chỗ cuối cùng thì chuyển sang qua một giai-đoạn mới để trở lại thời-kỳ chánh-pháp, tồi tượng pháp và đi đến kết cực là mạt pháp. Chính Phật Di-Lặc sắp ra đời là để trùng-hưng chánh-pháp hay Thượng-Ngươn vậy. Cái lý của Cao-Đài-giáo không xa cái lý của Phật.
Nhưng ngoài cái lý về tam-ngươn, Đức-Cao-Đài Tiên Ông còn giải-thích cái cơ mầu-nhiệm về luật tiến-hoá của quả Địa-cầu mà Ngài gọi là “quả Địa-cầu 68” , và chính đó là lý-do thứ tư về đời tận-diệt.
4o Luật tiến-hoá của Địa-cầu. “Đây Thầy luận qua “quả địa-cầu 68 của các con”, nó gần ngày tiêu-diệt.
“Thầy không nỡ để cho các con chung chịu vùi lấp trong cuộc tang-thương nên phải giáng-thế độ đời, thả Linh-Thoàn mà đưa về Bồng-Lai Tiên-Cảnh.
“Cái quả Địa-cầu của các con ở đây nó gần đúng thời-kỳ tan rã, ấy là Thiên-Thơ Thầy định trước ngày giờ, mà cũng vui cho các đẳng chúng-sanh được trổi bước lên một nấc thang cao vọi. Hễ Thế-giái này tiêu-diệt thì linh-hồn nhân-loại tấn-hoá sang qua quả Địa-cầu 67 là nơi tiền-định của Đạo mầu.
“Thầy mới đến đây lần chót mà đem các con sang qua thế-giái nhẹ-nhàng, còn những đứa mê-muội, ngỗ-ngang, tội tình thì lại bị tiêu-tan ra gió bụi.Các con phải có ngày tận-tuyệt. Đứa nào thuận Thiên-cơ biết Đạo-Đức thiện-từ thì Phật-Tiên chực rước . Còn đứa nào cả ác-độc, trược trần khó mà an thân ngày chót…
“Vậy thì ngày nay thế-giái đã đúng luật tuần-hoàn Thầy đến đặng sẽ đem các con vào một thế-giái khác mà cho an-nghỉ hầu tầm cơ siêu-xuất đến cảnh Thần-Tiên. Các con chẳng nên khinh lời ấy là dị-đoan, một ngày kia sẽ có.”
Xem qua bốn lý-do vừa kể thì cơ tận-diệt đã rõ rệt quá rồi. Các đấng Phật, Tiên, Thần, Thánh giáng bút đều chẳng biết bao nhiêu lần nhắc nhở và báo trước ngày Tận-Thế sắp đến. Cái định-luật này đã dĩ-nhiên của cơ tạo-hoá, không có đấng thiêng-liêng nào làm ra hay cưỡng lại được. Chính đấng Cao-Đài Bồ-Tát đứng trước định luật ấy cũng không biết làm sao, đến phải than:
Thời-kỳ nhân-vật đổi thay,
Nên chi Thầy mới ra tay độ hồn,
Thầy là chúa cả Càn-khôn,
Nhưng không thể sửa Phép công Thiên điều.
Thấy con phạm tội rất nhiều,
Thương con xuống thế dắt dìu các con.
Bởi là Thiên-điều, là Phép công của Tạo-hoá cho nên không làm sao sửa-chữa được vì Tạo-hoá bao giờ cũng vô-tư, thưởng phạt rất công-minh.
Cầm cân Tạo-hoá rất công-minh
Lành thưởng phước ban, dữ phạt hành.
Một mảy không ly, đời tưởng dễ,
Nạn tai dường ấy cũng chưa khinh.
Mà luật thưởng phạt ấy, do đâu mà có ? Nếu nói do đấng thần-linh làm ra là sai cả luật Tạo-hoá công-minh vô tư. Không đấng thần-linh nào bày ra cả. Mọi sự phản-khích trong đời đều từ con người mà ra. Hễ con người tạo ra cái nhân nào thì tất nhiên phải hưởng lấy cái quả ấy. Các đấng Phật, Tiên-Thần, Thánh thấu triệt cái luật nhân-quả muốn cứu đời cũng không biết làm sao được khi chúng-sanh đã gây ra rất nhiều tội lỗi. Các đấng thiêng-liêng chỉ còn cách là khuyên người đời bỏ ác về lành, sống đúng theo con đường Đạo là con đường hướng thiện.
Đứng trước cơ tận-diệt, các đấng thiêng-liêng không nỡ ngồi yên phải đành giáng-thế độ đời.
Thầy thương mở lượng từ bi,
Giáng trần khai hóa Tam-kỳ Hạ-Ngươn.
Nay là đúng cuộc tuần huờn.
Phật-Tiên giáng thế ra ơn độ người.
Chấn-hưng giáo-lý Đạo Trời,
Hầu toan đánh thức người đời tỉnh say.

Cách giáng-thế độ đời của Tiên, Phật có nhiều lối: hoặc ra cơ-bút như Cao-Đài-giáo, hoặc chuyển-kiếp mượn xác trần như Phật-giáo phái Phật-Thầy Tây-An.
Khi giáng bút thức tỉnh người đời, các đấng thiêng-liêng hằng báo cho hay trước sắp đến ngày tận-diệt.
Ngươn hội chót lập thành cơ Đạo-Đức,
Để độ đời thoát vực biển sông mê;
Cuộc tan thương nay cũng gần kề,
Đường chánh Đại chưa hề ai bước đến.
Hoặc giả thấy đời sắp thảm khổ mà phải than:
“Cuộc đời cay nghiệt, nhiều nỗi éo le, nạn nọ nạn kia kế đến ngày tạo Thiên lập Địa. Máy hành tàng chưa thấu đáo, phép nhiệm-mầu cơ Tạo đã bày ra. Ôi là thảm khổ cho đời sẽ chịu vùi chôn trong cuộc tang thương biến đổi.”

Nhưng cơ tận-diệt ấy sẽ diễn ra thế nào ? Và chúng-sanh sẽ bị tiêu-diệt hết chăng ?

Hội Long-Hoa là ngày phán-đoán

Theo cơ bút của Cao-Đài-giáo thì rồi đây sẽ có Hội Long-Hoa để chọn người hiền đức. Chỉ có người hiền đức mới có đi đến Hội Long-Hoa. Còn những kẻ hung ác thảy đều bị tiêu-diệt.
Hiếm hoi cuộc thế xoay vần,
Long-Hoa đăng bảng Phong-Thần chẳng lâu.
Thấy đời có biết gì đâu ?
Không lo luyện tập Đạo mầu thoát mê.
Cả mang tội lỗi nặng nề,
Trong vòng tứ khổ khó bề lánh tai.
Cuộc trần nhiều lối chông gai,
Trời hôm bước khéo lạc loài mạng nguy.
Như thế đủ thấy Hội Long-Hoa là một Hội lập ra trong thời-kỳ tận-diệt để chọn người hiền, một cơ-hội hiếm hoi, mấy muôn năm mới có một kỳ. Hội sỡ-dĩ được lập ra là vì con người đã gây ra tội lỗi quá nhiều, cũng như nhà ngục sở dĩ có là vì đã có người phạm tội.
Như thế ai cũng có thể hiểu “Hội Long-Hoa là ngày phán-đoán, ai mưu tà, chước quỉ bị đoạ đày. Bảng Phong-thần trước mắt, cuộc dữ dằn đã cuối buổi tương lai”.Đối với kẻ ác, Hội Long-Hoa là một cuộc phán-quyết, nhưng đối với người hiền đức, Hội “Long-Hoa vốn là trường thi để chọn trang tu-mi Đạo cao Đức cả”.
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế vận thần thông,
Điểm đạo nhân sanh thoát não nồng.
Mở cuộc Long-Hoa chiêu Thánh Đức,
Hưng truyền Chơn-lý phước cao phong.
Thế cho nên những “kẽ hữu căn hữu phước… khá lập chí lo tu luyện cho kịp kỳ” vì là một cơ-hội hiếm hoi mà lại là:
Kỳ đại-xá Nam-bang hữu phước,
Mối chơn truyền gặp được là may.
Dầu người có tội tình mà biết ăn-năn cải hối lo lập đức tu thân cũng đều được ân-xá huống chi chính Nam-bang là nơi hữu phước hơn hết:
Lo lường thấu đáo đạo huyền-vi,
Từ thuở năm xưa chẳng giám bì.
Một nước nhỏ nhen trong vạn quốc,
Ngày sau làm chủ mới lạ kỳ.
Nhưng vì đâu Nam-bang hữu phước thì không thấy giải, chỉ thấy nói:
Đông-phương hồng-phước cũng còn,
Nên chi Tiên-Phật chìu lòn độ nhơn.
Đã là một cơ-hội hiếm-hoi cho những người hữu-phước nên Phật, Tiên khuyên chúng-sanh phải sớm cải ác tùng thiện, gắng chí tu hành cho kịp Hội Long-Hoa để cho khỏi đoạ sa muôn thuở:
Đời vừa gặp lúc Hạ-Ngươn,
Tang điền thương hải tuần huờn vần xoay.
Thiên-cơ khó nổi tỏ bày,
May duyên mới gặp Đạo-Thầy kỳ ba.
Rán tu kịp hội “ Long-Hoa”,
Trễ rồi một kiếp đoạ sa muôn đời.
Dầu cho vật đổi sao dời,
Tu hành cũng được Phật Trời chở che.
Nhưng khi Hội-Long-Hoa đã mở, những người hiền-đức đã được chọn, đời sống tương-lai sẽ ra thế nào? Đây là điều đức Cao-Đài Thượng-Đế cho biết:
“Đạo phục-hưng là vì lòng bác-ái, từ bi của Thầy thấy cuộc tuần hườn hầu mãn, cơ dĩ định cận kề, không lẽ để đám con thảy phải chung chịu trong cuộc tang điền thương hải, mà bị chôn lấp cả xác hồn, nên mới giáng-thế phực-hưng chơn truyền để chỉnh đốn đời U-Lệ trở lại đời Nghiêu-Thuấn cho người người rõ đạo Đức tu hành, hầu thuận theo thiên-lý mà bỏ dữ làm lành và kềm nhơn-dục để xa đường tội lỗi.”
Chỉ biết đời hậu lai sẽ như đời Nghiêu, Thuấn hay hơn nữa:
Dựng đời Ngủ Đế Tam-hoàng,
Trăm nhà muôn họ vững vàng thảnh thơi.
Chưa ai thấu đáo cơ Trời,
Rồi ra kích bác lắm lời dị-đoan.
Chớ không biết gì nhiều hơn nữa. Duy có Sấm Giảng của Phật-giáo phái Phật-Thầy thì mới thấy giải rõ cõi đời Thượng-Nguơn.


Chương thứ VI: Phần giải-thuyết

I. Người Có Điễn Lành: Cô Trúc Lâm Nương THẾ nào là điễn-lành? Và điễn-lành với huệ khác nhau thế nào?
Như chúng ta đã biết người có huệ là tự tâm sáng tỏ. Và cho được có huệ phải tu luyện phép Lục-Độ, lắng lặng cái tâm nghĩa là, nói theo danh từ Phật-học, do Tự-lực mà có. Còn người có điễn-lành là người, nhờ có một vị siêu-phàm nào tiếp diễn cho, nghĩa là sự sáng tỏ do Tha-lực mà có. Bởi thế, người có huệ thì sự sáng tỏ, giờ phút nào cũng có, còn người điễn-lành thì sự sáng tỏ chỉ có trong những lúc được tiếp điễn.
Muốn cho dễ hiểu, chúng tôi xin đưa ra một thí-dụ cụ -thể. Như một chiếc xe hơi, sỡ-dĩ chạy được là do viên tài-xế điều-khiển. Ở người có huệ thì sự sáng tỏ do tâm, cho nên có thể ví như viên tài-xế tự mình điều-khiển lấy chiếc xe, bất cứ lúc nào muốn chạy xe cũng được. Còn người có điễn-lành thì khác. Chiếc xe cử-động là do viên tài-xế điều khiển, ở đây là một đấng thiêng-liêng, còn người có điễn-lành ví như người ngồi một bên viên tài-xế. Bởi thế chiếc xe chạy được là do viên tài-xế chớ không do người ngồi một bên. Hễ viên tài-xế không có thì chiếc xe không có thể chạy được. Trường-hợp của người được tiếp điễn là như thế.
Tuy rằng sự sáng tỏ của người có điễn-lành là do sự tiếp điễn mà có, nhưng cũng nhờ sự tiếp điễn ấy mà người được tiếp, nếu biết dọn mình và gắng chí tu hành chơn chánh cũng được mở tâm-linh và lần lần cũng sáng tỏ.
Nhưng trường-hợp này rất hiếm.
Người có điễn-lành chẳng những khác với người có huệ, mà cũng khác với đồng bóng và cầu cơ.
Về đồng bóng thì phải thượng xác, mỗi khi muốn cầu một đấng thiêng-liêng nào đó. Người thượng xác mỗi lần lên là mỗi lần ợ ngáp biểu-hiệu một trạng-thái không còn tự biết mình, vì phần xác đã cho đấng thiêng-liêng nào đó mượn rồi.
Thế cho nên, khi đấng thiếng-liêng thăng thì phần xác không còn nhớ những điều gì của mình đã làm hay nói trong lúc lên đồng. Người có điễn-lành thì không thế. Khi muốn ra thi bày hay giảng-giải điều chi thì người được tiếp điễn không có đỗi trạng-thái, vẫn ngồi nói-năng như thường.
Người có điễn-lành còn khác với lối cầu cơ ở chỗ, cầu cơ thì phải có đàn cơ, có đồng-tử. Mỗi lần cầu là mỗi lần phải nguyện vái và muốn cầu phần thiêng-liêng nào thì nguyện thỉnh phần thiêng-liêng ấy.
Bởi thế một đàn cơ thể tiếp nhiều vị thiêng-liêng xuống cơ. Còn người có điễn thì không thế. Bất cứ giờ phút nào hễ muốn cầu một điều gì thì người có điễn-lành được vị thiêng-liêng tiếp điễn ngay, và chỉ có một vị thường trực; cũng có khi được một vài phần thiêng-liêng khác tiếp điễn, nhưng trường-hợp này ít xảy ra.
Như thế chúng ta có thể hiểu rằng người có điễn-lành là người được một đấng thiêng-liêng nào đó tiếp-điễn. Về những thi bài hay diễn giảng trong lúc được tiếp điễn, ai cũng nhận thấy là siêu-phàm thoát tục. Một điều kỳ-diệu là những người được tiếp điễn lại vốn là người ít học hay có học cũng ở mực phàm-nhơn.
Ấy thế, mà khi được tiếp điễn thì sáng tỏ một cách lạ thường, viết văn thơ lưu loát, chưa hẳn người có học uyên-bác hay những tay thi-bá sánh kịp. Chẳng những thi bài thoăn-thoắt siêu-nhiên mà còn đượm mùi huyền-cơ mầu-nhiệm, óc phàm không thể lường nổi. Bởi thế, những người đến thử thách đều phải ngạc-nhiên trước những phút người được tiếp điễn, mà bình sanh họ biết sức học hỏi, hiểu biết không đến đâu.
Đó là một điều huyền-diệu mà các đấng thiêng-liêng tá-hiện để thức-tỉnh người đời trong thời-kỳ mạt-kiếp này. Một điều mà ai ai cũng phải kinh-ngạc là người được tiếp điễn giải-thuyết về Tận-Thế và Hội Long-Hoa rất phù-hạp với Sấm-Giảng hay những điều tiên-tri của các bậc siêu phàm đã cho biết.
Phải chăng cơ tận-diệt đã gần mà người có điễn lành xuất hiện rất nhiều?
Trong số đó, chúng tôi xin giới thiệu cô Trúc-lâm nương ở Gia-định mà nhiều người được biết.Vậy cô giải-thuyết về Tận-Thế và Long-Hoa thế nào?
1-Giải-thuyết về Tận-Thế và Hội Long-Hoa
Cô Trúc- lâm-nương cũng giải-thuyết rằng: thời-kỳ này là thời-kỳ mạt- pháp, cuộc đời sẽ tiến đến cơ tiêu-diệt. Mà đó cũng chẳng qua là luật tuần-hoàn đã định, vì chúng-sanh quá đắm say trần trược, gây quá nhiều quả báo, cho nên hễ vay nhiều thì phải trả nặng. Trong bài “Nhân, Xuân vấn đáp”, cô mượn lời xuân mà tỏ bày cái lý siêu-mầu ấy:
Thiện Nhân hỡi! đôi lời ta xin gởi,
Cuộc tuần-hoàn tạo-hóa đã định phân.
Vì chúng-sanh say đắm vị hương trần,
Thời mạt-pháp,vay nhiều nên trả nặng.
Và để cứu vớt chúng-sanh trong thời-kỳ mạt-pháp, các đấng Phật, Thánh, Tiên lâm-phàm và xuất-hiện ở nước non nhà. Cô Trúc-lâm-nương cũng mượn lời xuân để đáp:
Là tri-kỷ, đôi lời ta xin nhắn,
Phật, Thánh, Tiên xuất-hiện nước non nhà.
Độ chúng-sanh, giữ vững khắp san-hà,
Đời mạt-pháp hoằng khai thành chánh-pháp.
Chính nhờ phép mầu của Phập, Thánh, Tiên mà các hùng binh đều giải giáp. Thánh Chúa xuất-hiện lập lên đời Thương-Ngươn rực rỡ:
Cơ mầu-nhiệm hùng-binh đều giải giáp,
Đời Thượng-Ngươn rực-rỡ ánh mây hồng.
Khắp bầu Trời tỏ rạng bóng Lạc-Long,
Cùng Chúa Thánh điểm tô sông núi Việt.
Trong các Sấm Giảng cho biết rằng: trước khi đi đến Hội Long-Hoa, loài người phải điêu-linh về tai trời ách nước, như nạn binh đao, nạn sấm nổ nạn lửa trời, nạn Đại Hồng-thủy…
Thì đây cô Trúc-lâm nương cho biết những biến-cố xảy ra từ đây đến ngày Hội Long-Hoa và lập đời Thượng-cổ:
Chúng tôi xin tuyển chọn những bài trong đó cô có nói đến sấm nổ:
Bão tố đầy trời ngoại xứ Âu,
Nước tràn lợp đất đổ nghiêng bầu.
Đau lòng bạt gió chim sa bẩy,
Não dạ mê mồi cá mắc câu.
Rồng lộn sông vàng mây tái mặt,
Sấm rền rừng thẳm núi tơi đầu.
Việt-Nam tỏ rạng màu Anh Thánh,
Rưới đức năm châu, chủ bá hầu.
Câu “Sấm-rền rừng thẩm núi tơi đầu” đủ mô-tả cảnh-tượng khi sấm nổ thì núi phải vỡ tan, như các Sấm-Giảng đã nói.
Về nạn nắng lửa mưa dầu, cô Trúc-lâm-nương có đề-cập đến trong bài thơ dưới đây:
Đốt nén tâm hương tựa mái lầu,
Đoái nhìn khói lửa khắp năm châu.
Mây giăng chẳng phủ bao giòng lệ,
Trăng tỏ khôn soi mấy đoạn sầu.
Xót bấy nạn dân chan nắng lửa,
Thương thay ách nước đẫm mưa dầu.
Cơ Trời mầu-nhiệm cơ huyền định,
Tiếng khóc nhơn sinh tiếng khóc đầu.
Và đây bài thơ cô có nói đến nạn lửa Trời và Hồng-Thủy:
Bốn phương cùng động can-qua,
Tìm cho được chốn Tam-Hòa bảo thân.
Có lời nhắn khách tu chân,
Đừng ngơ-ngác giữa đàng trần mà nguy.
Cuộc thế suy, lòng người suy,
Đông Nam đại loạn chia ly muôn phần.
Lửa trời hực cháy rần rần,
Hồng-thủy nước xoáy, xoay vần càn khôn.
Tìm cho đến Bảo-giang môn,
Là nơi Chúa Thánh Chí-Tôn tọa thiền.
Cầu xin được phép diệu-huyền,
Hài-vân thoăn-thoát đến miền Đế-kinh.
Đợi thời trăng lặng bể kinh,
Long-Hoa thành-tựu phỉ-tình ngao-du.
Về Hội Long-Hoa cô Trúc-lâm-nương có bài thơ sau đây, với câu khoán thủ: Long-Hoa Đại-Hội hợp nhứt Linh-căn”.
Long môn Di-Lặc ngự tòa sen,
Hoa quí Quan-Âm tọa trước đèn.
Đại mở chơn thần nhuần thạch thủy,
Hội hòa kim tánh đượm hương sen.
Hợp hoàn chín cõi trên thềm ngọc,
Nhứt thống năm châu dưới ánh đèn.
Linh diệu phép mầu qui một mối,
Căn nguyên huờn bổn thắm mùi sen.
Trong bài thơ này cô chỉ dùng hai vận: sen và đèn, cũng là một lối thơ rất khéo như thơ độc vận.
Cũng như Sấm-Giảng, cô Trúc-lâm-nương cho rằng giống dân Lạc-Hồng sẽ trổ mặt, bình trị bốn phương, các nước đều lai đầu Minh-Chúa:
Non tòng vị thắm chảy tràn Âu,
Bát-ngát hương bay khắp trọn bầu.
Đương lúc gió đùa cây đổi lá,
Giữa mùa sóng bủa cá vương câu.
Ra nhân mở khóa năm châu hội,
Trổ đức khai cơ tám hướng đầu.
Hồng-Lạc làu làu lòa ngọc chiếu,
Bốn phương bình trị đến Minh hầu.
2-Giải-thuyết về Thượng-Nguơn và Chúa-Thánh
Cô Trúc-lâm-nương cho rằng khi Hùm sa lưới và Ngạc vướng câu, ám chỉ hai cường quốc tranh-hùng mong bá-chiếm hoàn-cầu thì giống dân Lạc-Hồng qui-phục được năm cõi mà lập nên đời Nghiêu Thuấn:
Thuyền giác muốn chèo đến bến Âu,
Đón đưa căn quí hội chung bầu.
Bởi xa rừng Thánh, Hùm sa lưới,
Vì đắm bến trần, Ngạc vướng câu.
Rối dạ gió đùa dân tản lạc,
Thỏa lòng biển cạn nước quây đầu.
Ai hay Hồng-Lạc qui năm cõi,
Đất Thuấn Trời Nghiêu tụ bá hầu.
Phụ họa theo Sấm-Giảng, cô Trúc-lâm-nương nhận rằng đến thời-kỳ lập đời Thượng-Ngươn, đất Thuấn Trời Nghiêu, thì tam giáo qui nguyên, Đức Phật Di-Lặc ra hoằng-khai chánh-pháp, qui tụ thất thập nhị hiền, tam thiên đồ-đệ:
Lập đời Thượng-Cổ đạo cao thâm,
Tam giáo qui nguyên định chẳng lầm.
Chánh-pháp hoằng-khai, ngôi Di-Lặc,
Quần tu phổ-độ: sắc Quan âm.
Tam thiên ngũ hiệp qui lai thế,
Thất thập nhị hiền tụ giáng lâm.
Bốn hướng tuần du công Thánh-mẫu,
Bàn đào mở hội đón linh căn.
Chính đó là thời-kỳ bình-trị muôn dân lạc-nghiệp âu ca. Chừng đó mới biết nhà Nam có Bảo-Hà, giống dân Lạc-Hồng rỡ-rỡ:
Lạc-Hồng rỡ-rỡ chốn triều-ca,
Mới biết nhà Nam có Bảo-Hà.
Xích-tử ra đời an vạn quốc,
Hào-quang chói rạng khắp gần xa.
***
Xà chuyển ánh hồng rọi sắc long,
Mới hay cháu phụng với con rồng.
Càn khôn chuyển máy âm dương định,
Rực rỡ muôn năm ánh Lạc-Long.
***
Thượng-cổ lai hườn dấu Lạc-Long,
Huyền-cơ xoay chuyển rực trời hồng.
Vân môn, Trước-địa tri thiên lý,
Hội chốn Bảo-Hà mới rõ thông.
Nhưng chốn Bảo-Hà cũng gọi là Bảo-Giang ở đâu? Chính đó là bí-quyết để tìm ra chỗ Thánh-Vương xuất, mà cô Trúc-lâm-nương thường thử-thách:
Đố ai biết Bảo-giang môn?
Là nơi Thánh-địa Thiện-tôn định phần.
Làu làu ngọc chiếu cảnh trần,
Là nơi Tiên, Phật, Thánh, Thần xuất thân.
Xuất kim thân, hóa kim thân,
Ly nơi Đồng thổ xoay vần Tây-phương.
Về danh-từ Bảo-giang hay Bảo-hà, chúng ta thấy cô Trúc-lâm-nương vẫn nhắc đến luôn. Nhưng Bảo-giang ở đâu?
Danh từ Bảo-giang có phải là danh-từ mới lạ không? Nếu ai có nghiên-cứu về Sấm Trạng-Trình, chắc nhận thấy danh-từ Bảo-giang hay Bảo-giang môn được lặp đi lặp lại mãi.
Đây chúng tôi xin trích ra một vài đoạn có nói đến Bảo-giang như:
Lại nói sự Hoàng-giang sinh Thánh,
Sông Bảo-giang Thiên định ai hay?
Hoặc là:
Trí xem nhiệm nhặt cho tường,
Bảo-giang Thánh xuất Trung-ương thuở này.
Hay là:
Bảo-giang Thiên-tử xuất,
Bất chiến tự-nhiên thành.
Cũng cho biết Bảo-giang là nơi xuất Thánh và Thánh xuất ở Trung-Ương, nhưng không chỉ Bảo-giang là ở nơi nào.
Sở-dĩ chúng tôi đem đối-chiếu mấy đoạn văn của Sấm Trạng-Trình với những danh-từ của cô Trúc-lâm-nương đã dùng là để cho ta thấy cô Trúc-lâm-nương chịu ảnh-hưởng của Sấm Trạng-Trình rất nhiều.
Chẳng những về danh-từ, cô Trúc-lâm-nương chịu ảnh-hưởng của Sấm Trạng-Trình mà về sự nhận định thời-cơ, chúng tôi cũng thấy cô ngã theo Sấm Bạch-Vân và các Sấm Giảng.
Đây chúng ta hãy đọc bài này của cô Trúc-lâm-nương:
Xà chuyển long thăng Thánh xuất trần,
Còn chờ thân dậu mới an dân.
Ngọ mùi thảm họa sầu không tả,
Thìn tỵ can qua khổ chẳng phân.
Phất phới cờ hồng xâm đất Việt,
Chập chồng xương trắng ngất non Thần.
Mưa dầu nắng lửa mười năm chẵn,
Nước nảy tôi hiền trổ Chúa nhân.
Như thế chúng ta thấy không xa với Sấm Giảng và Sấm của Trạng-Trình về bài “Long vĩ xà đầu khởi chiến-tranh”, nhưng có điều cô nói rõ về việc qui kỳ Thánh-vương xuất-hiện.
Cô rất tha-thiết trong mong Thánh-vương xuất-hiện, trong bài thơ khoán thủ dưới đây:
Chí khí công minh chí nguyện thành,
Tâm hòa ý đẹp nhứt tâm sanh.
Mộng người Đại-đức nơi thềm ngọc,
Tưởng kẻ từ-bi chốn cửa thanh.
Thánh đạo nghiệp duyên còn chọn đón,
Vương minh ngôi vị sẵn riêng dành.
Xuất năm rồng giỡn cùng non nước,
Hiện giữa trời Nam một giống lành.




II. Thiên Thơ Trong các Sấm Giảng, cũng như mấy vị có huệ và điễn-lành đều nhận rằng nước Việt Nam sau này sẽ dẫn đầu thế-giới và trong ngày Hội Long-Hoa, Thánh-Chúa xuất-hiện trên đất Việt-Nam, nhưng chưa giải-bày rõ tại đâu nước Việt-Nam hữu-phước và sẽ là cõi Trung-Ương sau này, nghĩa là trung-tâm điểm của nền văn-minh Thượng-Nguơn. Cô Trúc-lâm-nương có cho biết Thánh-chúa sẽ xuất hiện ở Bảo-giang môn, nhưng không nói Bảo-giang môn ở đâu?
Nay nhơn đọc quyển Con đường nào? của tác-giả A.T.Y có thấy giải-thuyết những chỗ thắc-mắc ấy, nên chúng tôi xin trình-bày ra đây để giúp thêm sự hiểu biết về vấn-đề Tận-Thế và Hội Long-Hoa.
Cứ theo tác-giả thì quyển Con đường nào? viết theo tài-liệu quyển Huyền Diệu Thiên Thơ mà tác-giả may mắn được một dị-nhân tặng cho ở vùng Thất-Sơn.
Trước khi vào đề, tác-giả nêu lên một bài thơ có thể nói, tóm lược những điều Sấm-Giảng đã giải về cõi đời Hạ-Nguơn, hiện-tượng khi sấm nổ, Hội Long-Vân và Long-Hoa, Tam giáo qui nguyên, ngũ chi hiệp nhứt, giống dân Hồng-Lạc lập nên dòng Bích-Ngọc sau này… Chỉ có tám câu thơ mà gồm đủ các biến thiên của nước Việt.
Việt-Nam xuất hiện Hạ-Ngươn kỳ,
Thánh-Tổ lâm phàm hiệp ngũ chi.
Ba tiếng sấm vang khai địa huyệt,
Bảy nguồn thủy dựng tảo sơn kỳ.
Rồng Mây Phật hội Phong-Thần mạng,
Sen nở, Long-Hoa vạn quốc qui.
Ớ hỡi ! Lạc-Hồng nền Bích-Ngọc,
Vững lòng Chúa ẩn, hạnh duyên tùy.
Cốt yếu của quyển Con đường nào? là quyết định chắc-chắn có Thánh-Nhân ra đời hay chăng ?” Đó là cả mục-đích của quyển Con đường nào? mục-đích tìm Thánh-Nhân và vì đâu nước Việt-Nam có phước được Thánh-Nhân xuất hiện và được nảy nở một giống dân Bích-Ngọc sau này?
Muốn đạt được mục-đích tìm Thánh-Nhân ấy, tác-giả nêu lên hai nguyên lý để làm mục-phiêu trong sự suy-cứu:
1o Nguyên-lý cõi trần sắp có Thánh-Nhân ra đời.
20 Nguyên-lý Thánh-Nhân ra đời.
Trước hết chúng tôi đề-cập đến Nguyên-lý thứ nhứt.
Muốn biết có Thánh-Nhân ra đời hay không tác-giả xét qua mấy khoản sau đây:
a) VĂN-MINH VẬT-CHẤT HIỆN TẠI. Về phương diện khoa-học, thì loài người đã thông-minh tuyệt-bực, phát-minh nhiều máy móc tân-xảo. Nếu sánh với năm mươi năm về trước thì trình-độ ngày nay đã tiến-hóa rất nhiều, từ chỗ phiền-phức tiến đến chỗ giản-tiện mỹ-thuật.
Về phương-diện sinh-lý, tình-cảm, tư-tưởng và xác thân của người đời nay, biến-hóa đến chỗ mịn-màng, sắc-xảo, thông-minh, một hiện-tượng là trẻ con ngày nay có nhiều cảm-tưởng rất sâu xa.
b)PHONG-TỤC. Nhờ sự giao-thông mau lẹ, phong-tục của xứ này chịu ảnh-hưởng của xứ kia mà thay đổi. Con người ở bên Á-châu tiêm-nhiễm trực tiếp hay gián-tiếp văn-minh thế-giới mà không hay.
c)SỰ CHÊNH-LỆCH VỀ TINH-THẦN. Bị văn-minh khoa-học cám-dỗ, con người ham mê theo vật-chất kim-thời, lăn mình vào cuộc tranh-đấu để thỏa-thích tâm phàm. Vì quá say mê vật-chất mà một ngày một xao lảng phần cao-siêu của tinh-thần. Chính vì đó mà “cuộc thế đảo lộn xoay vần, đang lôi cuốn chúng-sanh vào đời mạt-pháp”.
d)GIÁO-LÝ XƯA HẾT HIỆU-LỰC. Tác-giả đưa ra gương Phật-giáo suy-vi ngày nay, để chỉ rằng giáo-lý xưa không còn hiệu-lực, “mặc dầu hôm nay chúng ta thấy Phật-giáo còn thạnh-hành nhưng chẳng qua là sự tín-ngưỡng thờ phượng mà thôi. Đường tu luyện bị sai siển rất nhiều, hòan cảnh hỗn-loạn lôi kéo con người càng ngày càng xa đường đạo, mặc dầu còn mỗi ngày lễ bái đốt hương”. Mà sỡ-dĩ có cảnh-tượng suy-đồi ấy là bởi ngày nay “cảnh đời hiện-tại khiến người giàu thì ham mê vật-chất, đeo đuổi theo danh-lợi nhãn tiền, sung-sướng tạm thời trong vật-dục, không cần đến đường đạo hạnh cao thâm” . Còn kẻ nghèo vì vấn đề “cần sống” còn đâu đầu óc lo nghĩ đến đạo-đức. Chính vì thế “tâm phàm không thể bình tỉnh mà tu niệm được. Nơi am tự chùa chiền còn bị tàn phá, nơi miếu võ còn bị tiêu tan, huống chi là kẻ thường dân làm sao cho khỏi bị đảo-điên trăm bề?”
e)THỜI LOẠN BẮT BUỘC. Tác-giả nhận rằng: hiện nay chẳng riêng gì nước Việt-Nam mà hầu hết các nước trên thế-giới đều lâm vào tình-cảnh của một cuộc nội-loạn. Vì sự cần sống mà con người nhập phe đảng để tranh-đấu nhau, chính đó là nguyên nhân của cuộc nội-loạn nước nào theo nước nấy.
g)ĐỜI SẮP TÀN. Vì đâu đời sắp tàn? Tác-giả đưa ra hai nguyên-nhân:
1o) Vì sự cần sống mà loài người sanh ra tội ác đến cực điểm, sát hại nhau không biết gớm. “Đời càng chế-tạo máy tinh-vi mầu-nhiệm, khí-giới tối-tân lợi-hại mà thiếu đức hạnh hiền lương thì càng dẫn con người đến chỗ tàn sát nhau không dứt”. Mà đó cũng là cơ Tạo-hóa khiến hạng người hung ác phải tiêu-diệt, còn hạng người hiền lương thì được sống sót để lập nền-tảng cho giống dân thứ sáu ra đời.
2o) “Theo luật vũ-trụ, trái đất phải thay đổi cảnh vật núi non sông biển vào khoản 2100 năm một lần và biến chuyển, lấp biển dời non, biên-giới sụp đổi một kỳ là 12.000 năm. Mỗi lần thay đổi san-hà thì một lần chúng-sanh biến-động tâm-lý, xác thân cũng theo cảnh trần mà biến-hóa”.
h)TỪ TRÍ-HUỆ ĐẾN GIẢI-THOÁT. Với sự phát minh khoa-học, con người đã tiến đến một trình-độ quá cao về vật-chất lẫn tinh-thần. “Trong thế-kỷ này chúng sanh phần nhiều đã đến trình-độ tiến-hóa vật-chất cực-điểm, tầm đến nguyên-lý sanh-tồn của vạn vật, cái luật vũ-trụ tiến-hóa vô cùng hơn hồi đời Xuân-Thu bên Tàu nữa”. Nhưng vì hóa đắm theo vật-chất mà thành ra mê chấp. Chính vì sự mê chấp mà con người phải đi đến chỗ tiêu-diệt.
Hạng người tiến-hóa không kịp trình-độ giải-thoát thì bị tiêu diệt, còn hạng người đủ điều-kiện giải-thoát thì được sống sót, tạo lập đời mới cho giống “Dân Bích-Ngọc”. Giống dân này phải nhờ bực Thánh-Nhân lâm-phàm chỉ dạy phương-pháp giải-thoát đường mê chấp.
Xét qua các nguyên-nhân vừa kể trên, tác-giả kết-luận: thế nào cũng có Thánh-Nhân ra đời trong thời-kỳ này.
1-Nguyên-lý Thánh-Nhân ra đời
Muốn biết Thánh-Nhân giáng-sanh ở xứ nào, cần phải xét qua ba điều-kiện:
“Thời thế. Thời thế là thời-cơ vận mạng của một nước, và thế-lực thạnh suy của nhơn dân. Thời thế hiện ra cho đúng sự cần dùng sức lực của Thánh-Nhân.
“Hoàn cảnh. Phải đủ hoàn-cảnh thuận-tiện, địa thế và xã-hội. Nghĩa là Thánh-Nhân giáng trần trong cảnh: trên thì hạp lòng trời, dưới thì hạp lòng chúng sanh để cho Ngài dạy-dỗ được mau lẹ.
“Nhân-tâm. Do duyên nghiệp và trình-độ con người trong đường tu niệm. Nếu nhơn-dân không đầu óc-tu niệm, tâm trí hoang mang theo vật chất lòng dạ độc ác tham-lam, Thánh-Nhân nào có ra đời nơi ấy được đâu. Ngài ra đời không hạp nhơn tâm, ai hưởng ứng theo Ngài? Bởi vậy Ngài lựa xứ nào có tiền duyên hiền lành với Ngài. (Vì bực Thánh-Nhân thường được chứng quả đến La-Hán Phật, được quyền tự-do chọn lựa cho đầu thai giúp đời, nếu như không giúp đời bằng cách giáng trần thì không đầu thai cũng được, vì La-Hán Phật là hạng đã thoát luân-hồi quả-báo rồi) phần đông có chí tu-hành và phải đến nấc thang tiến-hóa cần-thiết Ngài mới lâm phàm giúp đỡ.
“Xứ nào đủ ba điều-kiện trên kia, thì nơi đó Thánh-Nhân xuất-hiện chẳng sai. Bây giờ các nước trên thế-giới coi xứ nào có đủ ba điều-kiện ấy?”.
Trước hết tác-giả xét qua các nước bên Âu-châu thì thấy rằng: “Gần hết các nước văn-minh bị khoa-học trói buộc, lôi kéo vào cảnh tham-vọng tài-sản, vật chất, quên hết sự quí báu tinh-thần.Tuy rằng từ 1800 có một vài người tu hành đắc đạo như Le Comte de Saint Germain, và có hội Thông-thiên-học xuất-hiện ban rải thuyết “Huynh-đệ đại-đồng” trong các dân-tộc. Chúng ta không quên phong-trào Thôi-miên học P.Jagot, anh em ông Durville, và Thần-linh-học A. Kardec, giúp đỡ người Âu rất nhiều về sự thức-tỉnh tinh-thần khỏi đường lầm mê vật-chất. Nhưng người Âu bị khoa-học có kết-quả nhãn tiền làm thỏa-mãn tâm-phàm, vật chất lôi-cuốn quá mạnh, thành-thử một bên thì lăn xả vào đường tranh-đấu, còn một bên thì an-phận với chủ nghĩa “Huynh-đệ đại-đồng” của giáo-lý Thông-thiên-học đang hồi thạnh-hành khắp nơi”.…………………………………… …………………
Xét qua Ấn-độ thì mặc dầu ở nước này có Trung-ương hội thánh Adyar Madras, truyền-bá giáo-lý Thông-thiên-học nhưng các bực ấy còn thiếu điều-kiện kiến-tạo đời An-lạc, vì một vị Tiên hay Phật muốn xuống trần phải có sáu điều-kiện căn-bản này:
“1.-Phải đắc quả La-Hán Phật, hoặc chiếm được sắc lịnh Tiên ban.
“2.-Phải đi vào đường hy-sanh hạnh-phúc cõi Bồng-Lai Cực-Lạc dể chịu đầu thai làm phàm tục.
“3.-Phải đủ năng-lực tiến-hóa vật-chất, tinh-thần cho hạp hoàn-cảnh và thời-thế dưới cõi trần.
“4.-Phải lập lời Thệ-nguyện gánh vác công việc của chúng-sanh đến nấc thang tiến-hóa nào?
“5.-Phải có nhân-duyên với phần đông dân-sự ở xứ đó.
“6.-Phải có nhân-duyên đầu thai xuống cõi trần cho kịp lúc nhân-dân đang cần gầp người giúp đỡ.
“Tất cả điều-kiện trên, có hai khoản Nhân-duyên là quan-trọng nhứt. Bởi vì nếu một vị Tiên, Phật quyết hy-sanh giúp đời, có nhân-duyên tiền căn với nước Mỹ không thể giáng trần vào con nhà Việt-Nam được. Lại nữa, nếu nhân-duyên Thánh-Nhân giáng sanh, chưa nhằm lúc chúng-sanh cần gấp sự giúp đỡ thì công-phu lâm phàm của Thánh-Nhân không còn hiệu lực gì nữa.”
Sau khi xét qua các nguyên-lý về Thánh-Nhân xuất hiện và các nước trên thế-giới, tác giả kết-luận: Việt-Nam là Thánh-địa vì Việt-Nam có đủ điều-kiện địa-lý và dân-tộc cho Thánh-Nhân ra đời.
2-Việt-Nam Thánh-địa
Và đây, tác giả xét qua phương-diện địa-lý của Việt-Nam.
“Nước Việt-Nam có hai địa-thế đặc-biệt là hai mảnh đất phù-sa do các sông lớn bồi đắp, Hồng-Hà và Cửu-Long-giang, lập thành Bắc-phần và Nam-phần Việt-Nam. Nếu lấy khoa học địa-lý mà xét thì cái đầu ở Nam còn cái đuôi ở Bắc. Nước Việt-Nam được thấm nhuần con sông lớn nhứt, dài nhứt trên thế-giới. Nguồn nó bắt đầu tại núi Tây-Tạng Hy-mã-lạp-sơn chạy sang bên Tàu, bỏ ngọn về Việt-nam, hả miệng ra biển Đại-thanh. Miệng Cửu-Long vừa kết tụ nguơn khí, đầu Cửu-Long vừa hiện đủ hình, thì nước Việt-Nam có Tổ xuất-hiện, Thánh-Nhân ra đời giúp chúng-sanh vào đường hạnh-phúc.
“Một con sông lớn nhứt thế-giới, khởi nguồn nơi dãy núi Tây-Tạng cao nhứt, dài nhứt, lớn nhứt ở hoàn-cầu, làm sao khỏi linh-hiển lạ thường?
“Khoa địa-lý dạy rằng hễ trong dòng sông, bắt nguồn từ nơi đất địa hiển-linh, núi cao ngàn năm không người ở, rừng rặm ngàn năm không ai tới lui, phóng lượn sóng nghênh-ngang ngàn thu không cạn thì con sông ấy sẽ kết tụ nơi huyệt “Long đảnh” một địa-huyệt rất linh hiển phì nhiêu về vật-chất, cao siêu tột bực về tinh-thần. Ngọn Cửu-Long-giang là một dòng Bảo-giang oanh-liệt, oai nghiêm, vừa tạo thành nên vóc-vạc hoàn-toàn lối 100 năm nay. Kết liên với các núi, Cửu-Long-giang xuất-hiện ra 12 huyệt huyền-diệu chấm đậm nét hùng-vĩ trên địa-cầu này.
“Bắt đầu khởi kết tụ nguơn-khí Âm Dương xây nên địa-huyệt thứ nhất tại THẤT-SƠN (Châu-đốc). Chỗ ấy ba huyệt thiên-tiên hiệp lại làm Nê-huờn cung, xuất-hiện đúng ngày linh-hiển TAM HUÊ TỤ ĐẢNH mùi hương lạ kỳ bí-mật bay ra từ núi Sam đến núi Tượng. Chỗ ấy là cân não, cốt tủy của Cửu-Long tên nó được hưởng-ứng theo luồng điện thiên-nhiên, oai nghiêm, từ-bi, hùng-vĩ đời sau gọi là KIM THÀNH HUYỆT. Đó là huyệt dương đã hiện, Cửu-Long kết lần với hai cốt núi Âm-Phong, cô độc, liên hiệp thành cặp mắt Hà-tiên và Phú-quốc là THỦY TRUNG HUYỆT, Tây-ninh núi Điện Bà là HUỲNH MÔN HUYỆT, hai đảnh núi ấy thuộc về Âm, kết tụ nguơn-khí tại Trung-nguơn tạo nên ẤN ĐƯỜNG HUYỆT (Dương) để khai mở luồng điễn quang cho các huyệt kia vừa ngưng tại lối miệt Long-xuyên, Bình-mỹ (một dãy cù-lao lớn chạy chạy dài từ Bình-mỹ xuống gần đến Cần-thơ).
“Từ Kim-Thành huyệt phóng xuống mũi Cà-Mau và núi Kỳ-Vân, hai huyệt dương nữa, một bên thì thành sống mũi Cửu-Long chấm đến Cà-Mau (tức là LÂM HUYỀN HUYỆT) một bên thì Hàm-Rồng tại Kỳ-Vân (tức là huyệt BÍCH-NGỌC). Đồng cân với hai huyệt âm (Thủy-trung huyệt và Huỳnh-môn huyệt) hiện ra một huyệt thứ sáu (BÌNH-NAM-HUYỆT) tại núi Côn-Nôn là chót lưỡi của Cửu-Long.
“Sáu huyệt Âm dương vừa kết tụ nguơn-khí thì tại gần Trung-ương huyệt, yết hầu Cửu-Long, vừa khai mở gần Cần-thơ bây giờ, gọi là Trung-ương Cửu-Long huyệt. Lần lần ba cửa mở ra cửa Đại, Tiểu v.v… vừa thành tựu (năm Nhâm-Thìn 1892) khiến cho ba nguồn thủy dựng tại Bình-Nam châu chuyển-động (lưỡi Cửu-Long) làm cho các miền ở chánh cửa khẩu phải bị nạn lụt (Vàm-cỏ, Gò-công, Bến-tre và các cù-lao nhỏ v.v… ) ba ngày ba đêm.
Đó là bảy huyệt linh-thiêng chánh gốc của xứ Việt-Nam mới ngưng kết được lối 100 năm nay. Đứng giữa hoàn-cầu sự linh-thiêng tân-tạo là đầu Cửu-Long-giang, một nguồn Bảo-giang thiên-cơ đã định phải chói rạng sự huyền-diệu nhứt hạng khắp bốn bể năm châu. Vì địa linh ấy mới sanh nhơn kiệt, các vị Thánh Tổ kim thời hễ thuộc Âm-mạng thì phải xuất-hiện (chớ không phải giáng sanh) dạy đời trong ba huyệt Âm (Thủy-trung huyệt, Huỳnh-môn huyệt và Bình-Nam huyệt), còn thuộc Dương thì phải xuất-hiện ở Thất-Sơn, Kỳ-Vân và Cà-Mau (Kim-Thành, Bích-Ngọc, Lâm-Huyền huyệt). Nhưng mặc dầu Âm hay Dương mạng, tại gần Cần-thơ cũng là kết-tinh mối Trung-ương, yết-hầu Cửu-Long, lập nền tảng bình-phân nguồn sống vật chất cho nhơn-dân, còn Kim-Thành huyệt là nơi kết-tụ tinh thần khiến cho Thánh Tổ sẽ lập căn-bản, ban rải mùi Từ-bi Bác-ái, Minh-triết cho chúng-sanh.
Bởi nguồn thiên-cơ định cho xứ Việt-Nam được hưởng ân huệ của Cửu-Long-giang cho nên chúng ta phải rút địa-thế mà đoán ra thạnh-suy, hung-kiết, vận-mạng của một nước, một giống dân. Còn ngoài Bắc phần Việt-Nam là cái đuôi Cửu-Long lan-tràn đến vịnh Hạ-Long là dứt tại cốt Hậu-Đà của Long-Vĩ huyệt ngang Vinh lên Lạng-sơn Cao-bằng, có nhiều hầm mỏ và các tiểu huyệt, đã hiện ra từ 4000 năm nay bây giờ đã gần tàn rụi, bao nhiêu đời oanh-liệt các bực tiền-đế tiền-vương đều lần lượt ẩn vào mây mù tịch-mịch của thời gian.
“Tạo-hóa có một định-luật bất-tuyệt là vạn vật sanh hóa tiêu-diệt theo thời-gian, hết rồi đến sụt, hết thạnh tới suy, hết cao siêu đến hồi hỗn-loạn. Cái luật tuần-hoàn bí-mật của giọt nước mưa luân-chuyển từ nơi hải-hà mênh-mong không bờ-bến , bay bổng lên tận trời xanh, ngưng kết mây mù, rơi tan xuống đất từ giọt nhỏ lăn lộn qua các cảnh gió bụi, sạch trong, rồi đến lúc thoát dòng “Gian nan đau khổ” hiệp nhau thành một con sông lăn mau về biển cả, rồi cũng đến ngày kia bay trở lại lên trời biến-chuyển theo luật tuần-hoàn Trời đất, không ngừng không nghỉ. Chúng ta nào có biết đâu đời sống con người cũng như giọt nước mưa của vũ trụ? Nhưng lạ lùng thay! Hiện-tượng của: đất địa, san hà, hồ hải! Đó cũng là một sự “sống” vô cùng bí-mật của quả địa-cầu này, và cũng là một “đòn cân tạo-hóa để bình-phân thiên-luật điều-hòa các tinh-tú trong vòng càn khôn vô-tận.
“Việt-Nam! Việt-Nam! Việt-Nam là một xứ tùy vận-mạng thiên-cơ địa hậu, sanh được ở chỗ linh huyệt thiên-nhiên của tạo-hóa, thật lành thay! Quí thay! Xứ tân tạo, nước tân tạo, dân tân tạo. Kỳ hương sẽ phưởng phất tại huyệt Kim-Thành khiến cho chúng-sanh trên hoàn-cầu sẽ được hưởng mùi hạnh-phúc ngàn thu. Đất phù-nguyên vừa kết thành, tự-nhiên các huyệt mạch được tích tụ khí nguơn-thỉ Trời Đất, khiến cho tất cả con người (95 phần trăm) Nam-phần Việt-Nam xu-hướng theo đường đạo hạnh. Vì sao? Bởi xứ Việt-Nam là nơi Thánh-địa, tạo-hóa đặt để Nam-phần Việt-Nam đúng theo luật vũ-trụ và ở nhằm trụ cốt huyền-diệu của trái đất này.
“Thất-Sơn (bảy hòn núi sấp theo hình của huyệt tiên-thiên trong thân thể con người) cho nên gọi là núi Bảo-Sơn (hay là Bửu-Sơn cũng vậy). Số bảy là số hóa sanh vô-tận (Vô cực –Thái cực – Lưỡng nghi ­- Tứ Tượng, 3 trong rồi biến ra bảy, ngôi thứ tư Trời Đất, đến bảy từng vũ-trụ hóa-sanh sẽ hiệp nhứt trong vô-tận (chữ Án của Ấn-độ). Trong số bảy ấy phân ra hai giai-đoạn. Thứ nhứt ngôi đầu tiên (A-Di) là ngôi Âm dương chưa phân định. Đến lúc Âm-dương vừa phân, A-Di vừa sáng tỏ, thì chính trong ngôi ấy đã có hiện ra Tam-Thanh (Huyền-hóa Tam-Thanh). Đó là Tam-Thanh nhứt thể (một ba-ba một). Tam-Thanh nhứt thể biến hiệp với khí nguơn-thỉ biến thành cõi Trời phụ (nếu kể tam-thanh là ba, thì 6+3=9, còn nếu kể nhứt thể thì 6+1=7). Ấy là những số huyền-diệu bí-mật thiên cơ. Một, Ba, Bảy, Chín thành Tam-giác (Ba) tứ diện (Bốn) là hình-thức của một người ngồi thiền đúng cách (kiết già). Hiệp nhứt Trung-Ương là thức-tánh rồi huờn hư. Thật ra một sự bí mật của người tu-hành đang tầm hiểu.
“Bởi vậy nước Việt-Nam sanh vào một địa-huyệt thật linh-diệu vô cùng (Thất-Sơn, bảy núi, Dương và Cửu-Long, chín rồng, Âm). Sơn tiền điểm Long-mạch trong số bảy có sanh hóa, trong số chín Âm-dương kết tụ huờn hư, thật là không có xứ nào được như vậy. Toán theo khoa-học địa-lý thì nhờ có sự huyền-diệu trên đây, xứ Việt-Nam trở nên một Thánh-địa, một nước chứa đầy dân-tộc hiền-hậu, thông-minh nhơn-đức. Nhưng từ ngày bí-mật của ngọn sông Cửu-Long vừa lập thành bảy huyệt chánh gốc đến nay (gần 100 năm) các huyệt ấy khai mở mà con người Việt-Nam đã tiến lần đến chỗ hiền nhân thánh-triết”.
Cứ theo khoa-học địa-lý mà xét nước Việt-Nam hẳn là một địa-linh, các huyệt vừa kết tụ trong vòng một trăm năm nay. Ảnh-hưởng của cuộc địa-linh ấy đã gây nên một phong-trào đạo-hạnh tưng-bừng chưa từng thấy.
“Phong-trào đạo Tiên hồi 1880 (huyệt vừa kết tụ lại Thất-Sơn và Kỳ-Vân), có nhiều nhân-vật đắc quả Tiên ban như các vị: Phật-Thầy, Cử Đa, ông Đanh, Đạo Nổi, Thầy thím v.v… Từ 1800 đến 1920 thì có phong-trào Thiên-Chúa-giáo sang qua lan-tràn khắp xứ, kế đó có cuộc chấn-hưng Phật-giáo người chót được sắc lịnh phổ-thông ba năm là nhà sư Nguyễn-Kim-Muôn (sắc lịnh đây là sắc lịnh của hội chư Phật chớ không phải bằng-cấp thầy chùa). Sứ-mạng ngài có ba năm với Pháp-môn Tịnh-độ mà thôi. Trong thời-kỳ ấy gần hết dân-chúng miền Nam theo Tịnh-độ Cư-sĩ tu hành nhiệt-tâm. Sớm chiều trong các làng đều nghe tiếng chuông mõ. Ba năm sứ-mạng của Sư vừa dứt thì có hội Thần-linh-học gầy dựng đạo Minh-lý rồi kế Cao-Đài-giáo tiếp theo bành-trướng cơ-quan Tam-kỳ Phổ-độ làm rúng động nhơn-tâm, dân-chúng tín-ngưỡng theo hằng triệu. Như vậy còn chưa kể các vị tu Tiên như Tây-ninh có Bà Cô , Nha-trang, Phan-thiết có Cô-tư Bè, Kỳ-Vân có Cô-Cậu, hiện nay vẫn còn linh-diệu, mỗi phái được hàng ngàn đệ-tử.
“Kế thấy cuộc chấn-hưng Phật-giáo ở tại Linh-Sơn tự có cơ-quan truyền-bá bằng kinh sách; ông Minh-Trí lập ra nhánh Lễ-bái Lục-phương. Phật-học chùa lớn tại Phú-định (Chợ-lớn) do ông Lâm-Văn-Hậu chủ trương và các hội như Lưỡng-xuyên và Phật-giáo, mùi Chơn-lý của kinh phật được đem ra học hỏi nhiệt-thành; chùa lớn nhứt ở tại Huế, bên nữ cô Diệu-Tịnh (Thích-Nữ) lập chùa Từ-Hòa, vận-động phái nữ ra trường “Ni-trường Phật-học” ngoài Huế, dìu dắt nữ-lưu trên đường sáng suốt. Kế Diệu-Tịnh có Võ-Phụng-Kiều, pháp-danh Diệu-Minh, mở các am vân tại Mỏ-cày (Bến-tre) truyền-bá pháp-luyện tinh-thần và ăn hoa quả (cô dùng hoa quả trên ba mươi năm mà mập-mạp mạnh khỏe như thường). Lối 1935 ông Bạch-Liên tại Châu- đốc lập chi nhánh Thông-thiên-học do tận gốc bên Ấn-độ (Adyar Madras). Đồng thời ảnh-hưởng Phật-Tiên hiệp-nhứt nổi lên, vị cầm-đầu giáo-hội là ông Huỳnh-phú-Sổ (bây giờ gọi là Đức Giáo-chủ Hòa-Hảo).
“Như chúng ta xét rõ, không nước nào mới trong vòng một trăm năm mà nổi lên hơn cả chục phong-trào đạo-đức rất nhiệt-thành. Thứ nhứt là từ 50 năm nay, người Việt-Nam (riêng Nam phần) hết lòng lo tu-niệm…………………
Ấy cũng là nhờ một phần lớn ở địa lý, đất linh, ở vào các vĩ-tuyến địa-cầu kết thành những huyệt-mạch cực-kỳ huyền diệu về tinh-thần đạo-đức”
Tác-giả cho biết phần đất Việt-Nam đóng vào 12 huyệt sáng-suốt (6 huyệt chánh, 6 huyệt phụ và huyệt Trung-Ương là huyệt hội các huyệt) mà số 12 huyệt lại thuộc về Tâm-điền huyệt; “cho nên khiến các hạng con người lần lần xu-hướng vào đường đạo-hạnh hết. Các huyệt vừa kết tụ thì các tôn-giáo, giáo-hội mọc lên như nấm, nhân-dân niệm Phật Trời vang lừng một cõi. Đến lúc cửa huyệt Kim-Thành, Bích-Ngọc, Lâm-Huyền khai mở trong ba tiếng Ngũ-lôi vang dộng, bảy nguồn thủy dựng trào lên, thì Thánh-Nhân xuất-hiện ra đời đem mùi bác-ái yêu thương nhơn-vật vô cùng mà giúp chúng-sanh vào đường hạnh-phúc…
“Về dân tộc Việt-Nam, chúng ta không thể xem xét nước da hay là giống sanh-sản lai người ngoại-quốc. Nhưng chúng ta có thể lấy nội-dung tiến-hóa theo chiều thiên-cơ. Nhơn-vật ở địa cầu này đã đến thời-kỳ biến-chuyển lần thứ ba (lần thứ nhì bèn Âu-châu sụp đất Atlantide thành biển Océan Atlantique bây giờ, có trên 12.000 năm). Giống dân thứ tư tiêu-diệt, còn sống sót các giống dân phụ của giống dân thứ năm trở lại sanh-sản rải rác dưới cõi trần, để ngày sau gầy tạo nên hoàn-cảnh, nhơn-tâm và nòi giống của giống của dân thứ sáu ra đời hiệu là giống dân BÍCH-NGỌC, màu da trắng trong như ngọc-bích, thông-minh tiến hóa vô cùng, tự-do dùng thân cảm-tưởng trong Danh, Lợi, Tình mà lòng không mắc chấp…
“Trước khi giống dân thứ sáu ra đời, phải có một phong-trào hỗn-loạn (như khi xưa, mỗi lần tạo-lập nền tảng cho giống dân mới, thì giống dân cũ sắp tàn, sự hỗn-loạn tự-nhiên phải có). Lịch-sữ hằng ghi chép những gương xưa, chúng ta thấy rõ. Kế thời tạo-lập nền tảng cho giống dân mới, thì có Thánh-Nhân ra đời dạy chúng-sanh.
“Dân-tộc Việt-Nam theo thời cơ Thiên-định có rất nhiều linh-hồn thông-minh, tài-trí, đức-hạnh của các giống dân phụ thứ năm chuyển kiếp làm con người, vì Nam phần Việt-Nam là nơi địa-huyệt hạp với sự tiến-hóa với các linh hồn ấy. Dầu rằng các linh hồn khắp nơi hội-hiệp ở tại Nam phần Việt-Nam nhưng chẳng qua là do luật Trời biến-động khiến luồng Từ-Ân xuyên-tạc, Nguồn Ân Thánh-Triết lâm phàm sẽ thâu các linh-hồn ấy vào hàng đệ-tử cùng nhau tạo-lập “Đài gương An-Lạc”, đem hạnh-phúc cho nhơn-sanh. Vì dân-tộc Việt-Nam quan-hệ vô cùng đến sự tiến-hóa trên địa-cầu này, cho nên Nguồn Ân Thánh Triết (hiện nay chứng quả Phật La-Hán) phải tùng theo thiên-cơ mà chuyển kiếp vào dân Việt-Nam, lập đời mới, văn-minh tuyệt điểm vật-chất và tinh-thần phối-hiệp, rồi Ngài sẽ đắc quả Bồ-Tát vào cõi Trời Cực-Lạc”.
Tuy biết rằng “Nguồn Ân” xuất-hiện và tạo nền hạnh-phúc ở Việt-nam, nhưng Ngài còn giúp đỡ cho cả thế-giới. Ngài sở-dĩ giáng sanh ở Việt-Nam là “vì nơi đây hạp với thiên-cơ địa-hậu, hoàn cảnh, nhơn-tâm, nhưng Nguồn Ân vẫn là hạnh-phúc chung cho nhơn-loại, giúp chúng-sanh thoát khỏi dòng lao khổ”.
“Hạnh-phúc thay dân Việt-Nam!
“Hãy sửa soạn tâm hồn trong sạch lạy mừng Nguồn-Ân cứu-thế, muôn đời mới có một”.
Đó là tất cả nguyên-lý để tìm hiểu tại đâu nước Việt-Nam sẽ là cõi đất Trung-Ương trong thời-kỳ Thượng-Nguơn và dân-tộc Việt-Nam được hữu-phước dẫn đạo sau này, như Sấm-Giảng đã từng cho biết.
Chúng ta đã biết qua đâu là huyệt Kim-Thành, đâu là huyệt Bích-Ngọc, đâu là Bảo-Sơn đâu là Bảo-giang?
Thế là bức màn huyền-vi hé mở cho chúng ta khi đọc đến Sấm Trạng-Trình với những câu như:
Bắc hữu Kim-Thành tráng,
Nam tạc Ngọc-Bích thành.
Hay là:
Bảo-giang Thiên-tử xuất,
Bất chiến tự-nhiên thành.
Hoặc là:
Bảo-Sơn thiên-tử xuất,
Bất chiến tự-nhiên thành.



III. Nhà Bác Học: Ông Hồ Hữu Tường
NGOÀI lối giải-thuyết Sấm-Giảng khoa-học địa-lý còn lối giải-thuyết bằng phương-pháp khoa-học của ông Hồ-hữu-Tường, một học-giả mà ông Tam-Ích đã liệt ngang hàng với Đào-duy-Anh, Phan-văn-Hùm. Nguyễn-văn-Tố v.v.
Nhưng trước khi đề-cập đến lối giải-thuyết của ông, tưởng cũng nên tìm hiểu tại đâu ông Hồ-hữu-Tường thay-đổi quan-niệm một cách đột-ngột mà ông Thiếu-Sơn gọi ông Tường là “một nhà học-giả đương khủng-hoảng về tinh-thần”.
Mà quả là ông Tường có khủng-hoảng về tinh-thần chăng, khi ông ra thuyết “Xuân Thu mới” và tuyên-bố ly-khai học-thuyết mác-xít, vì theo ông, học thuyết này đã quá thời trong giai-đoạn tiến-hóa tư-tưởng hiện nay và sau này.
Nhưng do ông Tường xây dựng thuyết “Tân Xuân Thu”, một danh-từ mà chúng ta được thấy Sấm-Giảng nêu lên để chỉ thời-tiết sau này của thời-kỳ Thượng-Nguơn.
Hẳn ông Tường khám-phá được cái gì, nhận thấy một chơn-lý cao siêu nào, nên ông mới thay-đổi tư-tưởng một cách đột-ngột như thế.
Nếu không thế , thì có lý đâu ông lại kêu lên “những tiếng gọi đàn” tha-thiết trong quyển Tương-lai văn-hóa Việt-Nam mà chúng tôi xin trích ra đây một đoạn:
“Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thực to để ai nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha-thiết. Thực tha-thiết để ai nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận-điệu đanh-thép. Thực đanh-thép để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm, tin… để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa-cầu về cho dân-tộc ta, dân-tộc Việt-Nam.
“Đây là một gia-đình nghèo nàn khốn-khổ. Mẹ bịnh la-liệt không tiền chạy thuốc. Gạo trong vò sạch hết sạch. Em nhịn đói không nổi kêu khóc vang tai.Tất cả anh, chị, em đều đuối sức, mệt hơi, vì thời buổi làm ăn vất-vả…Ngẫu-nhiên, một đứa con trong gia-đình này gặp ở giữa rừng một khối vàng to. Khối vàng quá to, thừa sức cung-cấp để chạy thuốc cho mẹ, mua gạo nuôi cả nhà, trang-trải các mối nợ và làm cho gia-đình trở nên mấy ngàn lần triệu-phú. Khối vàng quá to, nên sức mình ôm về, hay lăn về không nổi. Rồi hối hả, đứa con ấy chạy đi kêu anh, chị, em, lên “tiếng gọi đàn” để vào rừng cùng đem khối vàng về…
“Trong lòng của đứa con ấy cũng dồn-dập những luồng thổn-thức e-ngại. Làm sao mà có được những lý-lẽ đanh-thép để cho anh,chị, em tin? Cảm-hóa, tin rằng mình đây không phải là điên rồ, không phải là mê-mộng lại sáng-suốt mà báo tin mừng cho gia-đình và lên tiếng gọi đàn, để cùng nhau chung sức, nắm ngay lấy hạnh-phúc và vinh-quang.”
Ông Tường đã bộc-lộ sự khám-phá của ông bằng một lối văn ngụ-ngôn ẩn-ước quá khéo-léo.
Nếu ông không khám-phá được cái gì hay không nhận thấy một chơn-lý cao-siêu nào thì có lý đâu từ địa-vị một nhân-viên trong phái-đoàn Hội-nghị Dalat, đương được người tín-nhiệm lại từ khước trách nhiệm của mình, mang gói từ Hà-Nội trở về Sài gòn, tuyên-bố một câu làm ngơ-ngác cả mọi người: ông tuyên-bố từ giã trường chánh-trị trong năm năm.
Từ sự kinh-ngạc này, ông đưa người ta đến kinh-ngạc khác. Ông lẳng-lặng như một thầy tu nhưng lâu lâu ông đăng lên báo nhiều ý-tưởng mà không ai ngờ. Ông cho rằng học thuyết mác-xít đã lỗi thời, rồi ông đưa ra thuyết “Tân Xuân Thu” làm cho phái của ông Tam-Ích cực-lực chỉ-trích.
Nhưng đó cũng chưa mấy ngạc-nhiên bằng khi ông Tường đưa ra đời bộ Ngàn năm một thuở trong đó ông mượn vai Phi-Lạc để đưa ra bao nhiêu lời tiên-tri của Sấm-Giảng, giải-thuyết lý Tận-Thế, lý Tam-Nguơn và đồng thời phủ-nhận những điều người đời nay đương tin-tưởng ở máy móc, thù phụng cái cũ của người ta để làm cái mới của mình mà không nhận rằng mình đã có “một khối vàng to”.
Đây chúng ta thử đọc một đoạn văn này của ông Tường đủ thấy quan-niệm của ông về cái nghĩa “mới” và “cũ”.
“Những nhà lập luận thiển-cận thường có luận điệu này: triết-gia Tàu hay lấy những học-thuyết cũ rích của Tây-phương mà nhập-cảng vào Trung-quốc và bảo đó là “mới” thì nguyên-nhân là bởi các triết-gia ấy có bịnh “cóp” rồi thì họ kêu-hảnh với lời giải-thích tạm bợ:” Á-phiện làm buồn ngủ vì á-phiện có tính làm buồn ngủ”.
“Ta thì không thế. Ta lại tìm thêm: “Tại sao các triết-gia Trung-Hoa hay cóp?”
“Nhưng hỏi mãi cũng chán. Bởi vì lòng ta muốn làm sao cho ta được như chim bằng của Trang-Tử vỗ cánh bay mấy muôn dặm, sáng-tạo ra được một nền triết-học nào mới-mẻ đối với Tây-phương! Chớ cái việc cóp các học-thuyết của Tây-phương rồi đem ra mà nói rằng “tân” với đồng-bào của mình, thì thú thực “tân” này không khác cái “tân” của các bà đã nằm bếp!
“… Muốn cầm đầu thế-giới hay chịu phận, làm em của người, làm nước chư-hầu hiến cống cho một nước thiên-tử nào đó, thì hãy một mực đi theo triết-học của nước đó đi. Còn nếu nuôn chí lớn: thì lập một nền triết-học khác làm cơ-sở cho một đạo sống khác”.
Nhưng những tư-tưởng trên đây chưa làm đảo lộn-cả ý-thức-hệ của con người bằng đoạn văn vấn-đáp sau đây:
“ Học sách à? Học sách tức là nhận kẻ viết sách làm thầy sao? Tôi không học nơi sách nào cả!
“ Họ tức mình hỏi:
“ Không học anh làm sao biết được?
“ Thì nó nói dõng-dạc rằng:
“ Không học mà biết mới hay chứ! Nếu phải học mà biết cũng như các ông nghè ông cống khác, chớ nào có hơn, mà tranh có một địa-vị hơn họ!”
Thật là một ý-tưởng ngạo-nghễ, nhưng thật ra thì không ngạo-nghễ tý nào! Không học mà biết là một hiện-tượng không còn lạ với người đời nay nữa.
Hẳn quí ngài còn nhớ Đức Huỳnh Giáo-chủ đã viết:
Đức Lục-Tổ ít ai dám sánh,
Người dốt mà nói pháp rất rành.
Và ông Thanh-Sĩ cũng có viết:
Có học có biết có tường,
Không học mà biết phi thường khó thay!
Cũng đồng một ý nghĩa: không học mà biết mới hay, như ông Tường đã nói.
Tại đâu ông Tường có những ý-tưởng giống trong Sấm-Giảng? Nếu ông không khám-phá một điều gì!
Có người cho biết rằng: sở-dĩ ông Hồ-hữu-Tường thay đổi ý-tưởng một cách đột-ngột như thế là vì ông đã được một quyển Thiên-Thơ cũng như tác-giả quyển Con đường nào?.Ông dựa vào quyển Thiên-Thơ ấy viết ra bộ Ngàn năm một thuở, giải-thuyết Sấm-Giảng với sự hiểu biết của một người đi sâu vào đạo-giáo.
Sau khi đặt ra bao nhiêu nghi-vấn về sự thay đổi chí hướng của ông Hồ-hữu-Tường, nhiều người quả-quyết ông có được Thiên-thơ và đây là điều mà người ta đã khám-phá được về chỗ bí-ẩn ấy.
Chỗ bí- ẩn ấy là ông Tường đã tự-nhận có được một quyển sách, rồi dựa theo đó viết ra chuyện Ngàn năm một thuở.
Đây đoạn ông Tường tự-nhận được có quyển sách:
“Số là tác-giả này, sau khi lánh nạn ra đến Hà-nội, ngụ được vài tháng, thì nạn binh lửa nổi lên, phải rút lui theo ngả Thụy-khê, làng Bưỡi, rồi đến làng Cổ Nhuế, v.v… Rồi đến khi hồi cư về Hà-nội, thì cũng do đường ấy. Khi trở về Cổ Nhuế, thì làng mạc tiêu điều, xơ xác, phải đến một góc đình con đứng mà ngủ tạm một đêm. Không dè lượm quyển sách ghi tên những ai đến hỏi nơi vị “Cố vấn học thuật” của làng. Nhờ vậy mới biết câu chuyện rồi do đó tìm thêm, để thuật lại ở đây câu chuyện lạ đời “Ngàn năm..một thuở”.
Mọi người đều cho rằng chỉ một đoạn văn này đủ cho chúng ta thấy ông đã tự-nhận có được Thiên-thơ một cách hết sức khéo-léo, cũng như dùng thuật-ngữ “tìm được một khối vàng trong rừng” để ám chỉ rằng tìm được sự vinh-quang của Việt-Nam.
Nếu quả thật ông Hồ-hữu-Tường đã được quyển Thiên-thơ, sao ông không lấy đó mà lập-thuyết một cách chững-chạc của một nhà sáng-tạo, hay phát-minh mà lại dùng lối văn trào-phúng viết úp mở, nửa hư nửa thiệt?
Muốn hiểu dụng-ý của ông, hãy nghe ông biện-luận thế nào là trào-phúng, thế nào là không trào-phúng, trong một đoạn văn dưới đây:
“Ngài nói sao mà nghe như giọng trào-phúng vậy?
“Phi-Lạc cả cười hỏi lại:
“Nếu là trào-phúng thì sao?
“Cả thảy đều nói:
“Nếu là trào-phúng thì ngài nói chơi. Nếu không trào-phúng thì là ngài nói thiệt.
“Phi-Lạc cười dài nói:
“Lầm to! Lầm to? Trào-phúng thuộc về giọng nói mà không về nội-dung-có xác sự thật hay không. Có thể nói với giọng đạo-mạo như giọng của Đạo Nhân Dĩ-Nhất mà không xác với thực-tế chút nào. Còn nói đùa như tôi khi nãy mà không phải là trái với sự thật. Chính là ta phải dựa theo vào sự thật khi trào-phúng mới được.
Như thế, còn ai ghi trong giọng trào-phúng của ông Tường không hàm có sự thật.
Nhưng sở-dĩ ông Tường dùng thuật ngữ trào-phúng là vì ông còn hoài-nghi. Ông thấy tương-lai khoa-học và đồng thời ông lại thấy cảnh-giới sau này vô cùng đẹp-đẽ hơn khoa-học, nhưng cảnh giới ấy lại do Thiên-lực mà có, còn khoa-học, thì do nhơn-lực mà có. Ông thấy hay nhờ quyển Thiên-thơ giúp cho ông thấy, ông thấy nhưng chưa tin trọn vì nó xa với ông quá, còn khoa-học thì nó gần với ông hơn.
Chính vì đó mà ông đâm ra hoài-nghi và cũng vì hoài-nghi mà ông Tường giải-thuyết Sấm-Giảng bằng một lối văn nửa hư nửa thiệt.
1-Giải-thuyết lý Tam-Nguơn và Tận-Thế
Nhưng dầu với hình-thức nào, ông Tường cũng đã cho người ta thấy ông đi sâu vào Sấm-Giảng. Một cách gián-tiếp, ông nhìn nhận lý Tam-Nguơn và cơ tận-diệt, như ông đã nêu ra trong bộ Ngàn năm một thuở.
Đây chúng ta hãy nghe ông Hồ-hữu-Tường luận về lý Tam-Nguơn:
“Trước thời này, đã có một thuở thái-bình mà các thi-sĩ gọi là “thời đại hoàng kim” chăng? Đó là một câu hỏi không lấy đâu làm bằng để trả lời cho được.
“Các tôn-giáo bảo:
“Hồi xưa, trên trái đất này, đã có một nền văn minh chói lọi, người sáng-suốt, thông cảm được cùng tiên phật, biết phép nhiệm mầu, đoạt quyền tạo hóa, hiểu được quá khứ vị lai. Rồi đến một lúc kia, hồng thủy dâng lên, đất sụp núi lở, ấy là thời tốt đẹp kia đã tận-thế. Thật ra chỉ là, dứt thời “thượng nguơn” để sang “trung-nguơn”.
“Đến thời ‘trung-nguơn” này, tuy loài người không được ai ai cũng là hạng địa tiên như trước, song cả thảy an cư lạc nghiệp, chung hưởng thái bình, đường không lượm của rơi, nhà ngủ không đóng cửa. Và có một ít thánh-hiền, hồi ức được sự sáng-suốt của thời thượng-nguơn, có ghi chép điều hiểu biết vào những kinh sách mà đến nay, dầu ai thông minh đến bực nào cũng không hiểu nỗi. Thời trung nguơn này chấm dứt với đời Nghiêu Thuấn. Và từ đây bắt đầu “Hạ Nguơn".
Thời “hạ-nguơn” là một thời đen tối cho loài người. Người, lòng nuôi đầy ác ý, tranh nhau mà bóc lột nhau, giành nhau mà chém giết nhau. Kẻ giẵm lên xương máu của phần đông để lập sự-nghiệp của mình, thì được thế nhân ca tụng là anh hùng, vĩ nhân. Bao nhiêu óc sáng-suốt đều bị lợi dụng để chế tạo các khí giới tàn sát lẫn nhau, đưa nhân loại dần dần đến cảnh tận-thế.
“Nhưng các tôn-giáo chỉ muốn đem cảnh “tận-thế” mà dọa loài người, cho họ sợ sự trừng phạt của trời đất mà theo các giáo điều. Các tôn-giáo quên rằng: trời đất xoay vần, hết năm cũ sang năm mới, thì cảnh đông qua xuân tới là dĩ nhiên. Vậy nên hạ-nguơn có dứt rồi thì một thượng-nguơn khác sẽ đến. Ấy là “đổi dời”. Lý trời là vậy đó”.
Đọc đoạn này chúng tôi thấy ông Tường luận rất xác đáng về lý Tam nguơn, nhưng vì mang phải tật hoài-nghi mà ông cho rằng tôn-giáo muốn đem cảnh Tận-Thế dọa loài người cho họ sợ sự trừng phạt mà theo các giáo-điều. Có hẳn muốn cho loài người theo giáo-điều mà tôn-giáo nêu ra vấn-đề tận-thế chăng?
Chẳng hiểu dựa vào đâu ông Tường nhận thấy điều ấy, chớ từ Cao-Đài-giáo cho đến Phật-giáo phái Phật-thầy đều nhận: hễ mãn thời-kỳ Hạ Nguơn thì đến thời-kỳ Thượng-Nguơn. Như thế thì tôn-giáo đâu có quên cái lý tuần-hoàn của vũ-trụ mà ông Tường hoài-nghi.
Mặc dầu ông Tường phủ-nhận danh-từ “Tận-thế” và nhận giai-đoạn chấm-dứt thời-kỳ Hạ-Nguơn là một cuộc “đổi dời”. Song rốt cuộc ông cũng nhận “cuối thời Hạ-nguơn này là cảnh tận-thế của nhân loại”.
Đây chúng ta hảy nghe lý-giải của ông Tường về Tận-Thế, do Ngài Tả-quân Lê-văn-Duyệt cắt nghĩa cho ba nhà sư người Tàu nghe:
“Nãy giờ phải đòi ông Nguyễn-văn-Tố đến cắt nghĩa rõ về nguồn gốc của Thánh-Nhân, ấy muốn cho ba vị biết rằng khi mà Quỉ vương suy rồi là do tay Thánh-Nhân chấm dứt. Lúc ấy là cuối thời Hạ-Nguơn.
“Ba nhà sư hỏi:
“Làm sao mà biết rằng cuối Hạ-Nguơn?
“Tả-quân đáp:
“Cái đặc sắc của cuối thời Hạ-Nguơn này là cảnh tận-thế của nhân-loại. Xưa nay, loài người đã chứng kiến những cuộc tàn tạ của lắm cái văn-minh, như văn-minh của Ai-cập, của Ấn-độ, của Tàu. Nhưng mà những cuộc tàn tạ này không dữ dội và không phổ biến. Đó là những cuộc suy nhược lần mòn ở một địa phương. Nay là cảnh tận-thế dữ-dội phổ biến của nhân-loại.
“Ba nhà sư nghe nói đồng hỏi:
“Vì sao các nền văn-minh trước lo việc nhân nghĩa đạo đức, lo việc tu dưỡng của loài người. Như gần đây, Khổng, Phật, Gia-tô, Hồi Hồi thảy đều lo việc cứu vãn nhân loại……………………………………�� �……
“Nghe Tả-quân ví sự trút đổ của văn-minh Âu-Tây như hai người ôm vật nhau, thì cả thảy muốn biết rõ hơn nữa. Thấy vậy Tả-quân giải:
“Hiện nay các nước theo Âu Tây hãy còn đông. Đáng kể có Nga, Mỹ, Đức, Anh, Pháp, Nhựt, Ý có bảy nước. Kỳ dư chỉ là mới phết một lớp sơn bề ngoài thôi. Với bảy nước này, thế giới phải sống cảnh tượng như hồi liệt quốc nhà Châu. Một trận chiến tranh thứ nhứt đã đưa chúng vào một phen vật lộn. Nay lại bắt đầu một cuộc chiến tranh thứ hai. Nhưng chưa hết đâu! còn có một lần chiến tranh thứ ba nữa. Mà lần thứ ba này, cái văn minh Âu Tây lại kết tinh thành hai khối chọi nhau.
“Sư Hồng Hạc hỏi thêm:
“Hai khối này có phải là khối dân chủ và khối phát-xít chăng?
“Nghe hỏi vậy tả quân cười đáp:
“Dân chủ hay phát xít, tự do hay độc tài, đó chỉ là những phương tiện như thế nào cũng không cần, miễn là họ đạt đến mục-đích.
“Sư Hồng Hạc nghe nói không hiểu, bèn hỏi:
“Ngài nói văn minh Âu Tây đuổi theo cái lợi thì biết dựa vào đâu mà bảo rằng bảy nước ấy lại phân làm hai khối?
…………………………………………�� �…………
“Bởi là chiến tranh toàn-diện, nên sức tàn phá của nó mãnh liệt không ngần. Không có một địa hạt nào tránh khỏi sự tiêu-diệt. Giữa các nước, thì nước này diệt nước kia bằng những khí giới lạ lùng, nguy hiểm.
Trong một nước, thì đoàn thể này chống với đoàn thể kia một cách quyết liệt chẳng kể mạng người, chẳng động lòng nhân. Hễ khác đảng phái thì dầu cho là anh em, chồng vợ, cha con cũng không dung nữa. Bao nhiêu thâm tình đều xóa bỏ, chỉ nghe mạng lịnh của đảng phái mà thôi. Rối cuộc mọi người điều phải đau đớn khổ sở vì không biết làm sao mà dung hòa ý, tình, lý của mình với mạng lịnh khắc khe của đoàn thể. Không lúc nào con người thấy mình bị một ách quá nặng nề như thế!
“Ba nhà sư nghe tả cảnh tận-thế rùng rợn như vậy thì kinh hồn và chấp tay đồng hỏi:
“Nếu nhân loại bị loạn lạc như vậy, thì còn có hy vọng gì mà sửa đổi lại, lấy trí dẹp loạn, lấy thái bình trừ chiến tranh chăn?
“Tả quân đáp:
“Bởi cái thời loạn lạc như vậy, nên loài người khổ sở vô ngàn. Những hoạn, những nạn có Quỉ vương gieo rắc sẽ tràn ngập, làm chết ngợp chúng sanh. Thế mà có người cứu vãn được y như lời quẻ thứ mười hai của Khổng-Minh. Quẻ ấy là:
Chủng hoạn cứu nạn,
Thị duy Thánh Nhân.
Dương phục nhi tri,
Hối cực sanh minh.
“Câu thứ nhứt và câu thứ nhì có nghĩa là”
“Lấy hoạn mà chữa cái nạn, thì có Thánh Nhân mới làm được. Còn hai câu sau lại định kỳ hạn mà Thánh-Nhân xuất-hiện. Hết cái thời ám này, nghiã là dứt cái hạ-nguơn, bắt đầu thượng nguơn khác thì dương trở lại, chuyện ấy sẽ rõ. Ấy là hết tối tới sáng vậy. Lời sấm rõ lắm rồi. Nay dứt hạ nguơn Thánh Nhân là Xích Tử ra đời, đổi đời mới, lập thiên hạ lại.
“Ba nhà sư cùng hỏi:
“Còn chủng hoạn cứu nạn là làm sao?
“Cái đó là việc riêng của Xích-Tử, là sự nghiệp của người, ta không có phép lo trước. Thiên cơ bất khả lậu!
“Rồi Tả-quân nói tiếp:
“Còn như quẻ thứ mười ba:
Hiền bất dỉ dã,
Thiên hạ nhứt gia.
Vô danh vô đức,
Quang diện Trung-Hoa.
“Là tả cái cảnh thiên hạ đại-đồng mọi người được dùng, không bỏ sót ngoài đồng như thuở hạ nguơn, tất cả thiên hạ sống chung một nhà, yêu thương nhau. Cảnh ấy là thiên đường trên quả địa cầu”.
Ngoài những lý do Tận-Thế mà ông Hồ-hữu-Tường mượn lời Ngài Tả quân để phân giải như đã nói trên ông Tường còn giải-thuyết lý Tận-Thế về phương-diện lý-số và tôn-giáo nữa.
“Về mặt lý số, những nhà lãnh đạo cho phong trào muốn cho tất cả dân chúng tin-tưởng vào một ngày mà mọi người phải chọn chỗ dự bị, ngày hết thời âm sang thời dương, hết thời tối đến thời sáng sủa, hết thời khổ não đến thời hạnh phúc, hết thời loạn lạc tới thời thanh bình, hết thời tủi nhục tới thời vinh quang. Họ là những nhà lý số, dựa theo những thuyết của nhà triết-học đời Tống như Thiệu nghiên Phu, mà định cái ngày vinh quang ấy ở vào thế hệ của chúng ta.
“Thời về mặt tôn giáo, học thuyết của sư tổ Huệ Năng cũng đồng một dự đoán như vậy. Phật Di-Lặc xuống thế độ trần cũng vào khoản này. Và đến như theo Gia Tô giáo, ngày tận-thế hai ngàn năm sau Jésus giáng sanh cũng hiệp với tiên-tri của phái lý số.
“Mấy triệu người theo Lão học, tin vào phép dưỡng sinh. Mấy trăm triệu người theo Nho giáo, mấy trăm triệu người theo Gia Tô giáo đồng một sự tin-tưởng. Kẻ theo khoa học, dầu có hoài nghi cũng không cưỡng lại một trào lưu ngày càng mãnh liệt và đến lúc, nghiêng về một phía”.
Đọc đến đoạn này, người ta sẽ thấy rõ mối hoài nghi của ông Tường đã vỡ tan khi ông viết:
“Kẻ theo khoa học, dầu có hoài nghi cũng không cưỡng lại một trào lưu ngày càng mãnh-liệt”.
Nhưng vậy người ta có thể hiểu thêm rằng dầu ông Tường dùng một lối văn nữa hư nữa thực để cho người đọc có cảm tưởng rằng ông còn hoài nghi, nhưng thật ra trong thâm tâm, ông vẫn tin Sấm-Giảng.
Ông tin chắc đến đỗi ông dám cả quyết cho trận đại-chiến thứ ba sẽ nổ vào năm 1952.
Đây là một đoạn văn ông Hồ-hữu-Tường nói về trận địa-chiến thứ ba:
“Mấy năm mà Ngài gọi là không lâu?
“Nay là cuối 1945. Cái kế-hoạch đánh cuội của tôi vạch ra đó ít lắm bốn năm mới xong, nghĩa là đến gần hết năm 1949 thì Tưởng-giới-Thạch mới nhượng hoàn toàn cho đảng Cọng, thì còn mấy năm nữa đâu?
“Mà mấy năm nữa chớ?
“Thì ba năm, đến năm 1952, ắt có chiến-tranh thứ ba. Xứ tôi ai mà chẳng biết. Ông Trạng-Trình có để lại lời Sấm:
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ động đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân dậu niên lai kiến thái bình.
“Bài Sấm này không phải chỉ cuộc chiến tranh thứ nhì sao?
“Lầm! Lầm to? cuộc chiến tranh thứ nhì hoặc kể là khởi ở Tàu, nơi vụ Lư cầu Kiều là năm 1937 tức là năm Đinh Sửu, hoặc kể là khởi ở Âu châu hay là năm 1939 tức là năm Kỷ mão chớ nào phải là năm Thìn đâu mà gọi là Long vĩ, năm rồng, cuối năm Thìn?
“Vả lại lời sấm là bàn về cuộc chiến tranh thứ hai có ăn thua gì mà làm sấm chi cho mất công? Mà câu “Mã đề dương cước” đâu có ứng? Bởi anh hùng không có tận mà?
“Vậy theo Ngài thì cuộc chiến tranh thứ ba ra làm sao?
2-Giải thích trận Đại Hồng-thủy và Thiên-Hỏa
Đây chúng ta thử nghe ông Tường giải-thích về Đại Hồng-thủy.
Ông Tường cho rằng từ trước đến nay chưa có trận chiến-tranh nào mà sự tàn-sát lớn-lao bằng trận đại chiến thứ ba, bởi vì kỳ chiến tranh này, bao nhiêu phát-minh về nguyên-tử đều được đem ra phụng-sự cho việc sát hại. Chính võ-khí nguyên-tử ấy sẽ gây ra bao nhiêu tai nạn cho loài người như làm cho quả địa-cầu phải ngập lụt, làm cho nhân loại phải cháy thiêu.
Trước hết ông Tường cho rằng thế nào trận Đại-chiến thứ ba cũng nổi ra giữa Nga và Mỹ. Nhưng khu-vực chiến-đấu là khu-vực nào?
“Bây giờ chú thử tính lại xem con đường nào là đường chiến-lược của cuộc giao-phong của đôi bên? Ta sắp hai giả-thuyết. Một là Nga lấn thế mà công kích. Hai là Mỹ thừa sức mà tràn tới.
“Nếu Nga muốn công kích Mỹ hay là Mỹ đánh Nga thì con đường gần hơn hết là con đường hàng không vòng trên bắc cực. Thế là các nước ở nửa trên sẽ bị dội bom, bom thường, bom nguyên tử, bom vi trùng mà bị tàn phá cả.
“Anh nói như vậy rõ lắm! Tôi thấy bên Tân thế-giới thì Gia-nã-đại, Hiệp-chủng-quốc, còn bên Cựu thế-giới thì cả Âu-châu, Tây-bá-lợi-á, Nhựt-bổn và miền Bắc nước Tàu sẽ bị tàn phá không thua gì một cuộc tận-thế.
“Còn nếu Lục quân của Nga muốn tấn-công Mỹ thì phải noi theo ba đường.
“Con đường phía Tây là phải tràn qua nước Đức, nước Pháp, nước Y-pha-nho, Bắc-phi, để tiến tới Tây Phi và Nam-Phi, vì hai chỗ này sang qua Nam Mỹ gần hơn để rồi đó đánh lên Bắc Mỹ.
“Con đường phía Đông là từ Tây-bá-lợi-á đánh tan Nhựt bổn để đổ sang A-lát-Ka, rồi đánh sang Gia-nã-đại và Huê-kỳ.
“Con đường phía Nam là tấn-công Ấn-độ rồi từ đó đánh sang qua Úc-châu để sang qua Nam-Mỹ nữa.
“Và con đường chiến lược của Mỹ cũng chỉ là ba con đường ấy mà thôi”.
Sau khi vạch rõ khu chiến-đấu của Nga và Mỹ, ông Hồ-hữu-Tường không ngần-ngại mà nói đến cách hành quân của đôi bên.
Theo ông thì “con đường tấn công gần hơn hết bằng phi cơ, bằng bom nguyên-tử là xuyên qua Bắc cực và Nam-cực. Thì tất nhiên chiến-trường là hai chỗ ấy, Nga thì học phía Bắc cực, Mỹ thì lo Nam Mỹ, còn Anh thì lo Nam-Phi. Vậy cuộc chiến-tranh nguyên-tử tàn khốc sẽ diễn ở Nam cực và Bắc cực, mỗi bên toan phá hủy căn cứ của đối phương.
“Mỗi bên sẽ ném nhiều bom nguyên-tử mà không hạn chế được… Sức nóng của bom nguyên-tử làm nước đá kia chảy ra, sôi lên thành hơi nước nóng và có một trận lụt khổng lồ, một trận lụt nước sôi từ Nam-cực và Bắc-cực tràn về miền Xích-đạo.
“Người ta muốn làm gì để ngăn trận lụt nước sôi do nước đá ở Bắc cực và Nam cực chảy ra mà sôi sùn sục ấy cũng không được, bởi sức nổ chuyền của nguyên tử chạy cũng không kịp nữa.”
Nếu đó chẳng phải là trận Đại Hồng-thủy, chớ còn gì nữa, mà là trận Đại Hồng-thủy bằng nước sôi. Nếu vậy thì nhân-loại bị tiêu-diệt hết sao? Hay có phương gì tránh nạn lụt nước sôi ấy?
Ông Tường cho biết rằng: Ở Nam Mỹ-châu và Bắc Mỹ-châu, người ta giành nhau mà chạy đến cái eo đất nhỏ xíu ở giữa. Nội cái đứng không cũng đủ chật đất rồi còn chổ đâu cày cấy có lúa mà ăn? Tránh nạn phỏng nước sôi thì cũng bị nạn đói.
“Còn ở Âu-châu thì hết đường mà chạy. Ở trên tràn xuống thì bị Đại-trung-hải chận lại, tàu đâu mà chở cho hết. Và chở đem đi đâu bây giờ? Ở Phi-châu thì phía Nam dồn lên lại đụng sa-mạc Sahara. Tránh nước sôi lại bị khát nước. Ở Bắc phi thì chạy xuống đụng Sahara vậy.
“Còn ở Nga thì chạy đâu? Chạy qua xứ Á-rập, Sa-mạc, chỉ chạy sang Ấn-độ, xứ Ấn-độ không đủ mễ cốc nuôi dân, nay lại thêm người nữa làm sao mà sống nổi.
“Còn dưới kia, Úc-châu sẽ bị nạn lụt nước sôi tràn tới, không còn đường chạy, vì nó là một hòn đảo.
“Chung qui lại, chỉ có vùng Đông Nam Á-châu của ta là Miến-điện, Xiêm-la, Việt-Nam, niềm Nam nước Tàu là thoát được cái nạn lụt khổng lồ ấy”.
Ngoài nạn lụt, ông Tường còn cho biết cái nạn lửa cháy rực Trời mà Sấm-Giảng gọi là Thiên-hỏa. Ông Tường nói rằng: “Cuộc chiến-tranh thứ ba sẽ là một cuộc chiến-tranh nguyên-tử. Mà cái lợi hại của nguyên-tử-lực không phải là mấy quả bom như kỳ rồi đã nói ở Nhựt-bổn đâu. Sự hại của nó là sức nổi chuyền. Một nguyên-tử này nổi ra, phát điện tử bắn vào nguyên tử kế đó thì nguyên-tử sau này nổ luôn theo rồi chuyền như vậy mãi ra và tràn lan vô cùng tận. Nhiệt độ phát ra không thể tưởng tượng được”.
Nhưng rất may, nạn Thiên-hỏa ấy cũng như nạn lụt nước sôi không tràn đến miền Xích-Đạo. Nhờ đó mà nước Việt-Nam được an-tòan, dẫn đạo các nước trong thời-kỳ Thượng-Nguơn.
3-Giải-thích về Thượng-Nguơn và Xã-hội Tân Xuân-Thu
Ông Hồ-hữu-Tường cho biết rằng: “Cuối trận chiến tranh thứ ba hầu khắp quả địa cầu đều bị tàn phá. Các đô thị lớn đã biến thành những đống gạch ngói ngổn-ngang bắn ra những tia quang-tuyến của nguyên-tử-lực cho đến cỏ cũng không mọc được. Đó là kết quả của nguyên-tử. Đâu đâu, đầy xác chết bốc ra muôn ngàn loại vi-trùng đang nghễu-nghến tìm nạn nhân. Đó là kết quả chiến-tranh vi-trùng. Thành thị thì như thế. Còn thôn quê thì chỉ còn có một thứ cỏ dại mới khởi sự mọc le the bởi cái lẽ dễ hiểu rằng: khi làn nước sôi tràn lụt qua một lượt, thì cỏ cây thảy chết sạch hột giống thảy luộc chín tất cả. Loài người cũng chết sạch. Có ai sống sót khỏi nạn nước sôi cũng bị nạn đói, bởi còn cái gì đâu mà ăn? Riêng có vùng nhiệt-đới thì cỏ cây còn thạnh-mậu, các giống mễ cốc hãy còn sót lại. Nhưng ở nơi khác từ mấy năm, người chết gần hết, ai mà trồng trọt, nên phần đông đã trở nên hoang-vu”.
Chính nhờ ở vào vị-trí của miền Xích-Đạo mà nước Việt-Nam cũng như Miến-điện, Xiêm-la và miền Nam nước Tàu “thoát được cái nạn tàn phá của trận lụt khổng lồ ấy. Lại là xứ sản-xuất rất nhiều lúa ăn.Có bà con tản cư đến thêm gấp đôi dân số, nghĩa là đến hai trăm triệu người cũng có thể nuôi được”.
Vốn là một khu “phi chiến”, cho nên nước Việt-Nam sau này sẽ “bất chiến tự nhiên thành” đúng như Sấm Trạng-trình đã tiên-tri, mà ông Hồ-hữu-Tường ví sự “bất chiến tự nhiên thành” ấy như miếng võ-thuật “Hầu tử xuất động”. Nước Việt-Nam yếu-ớt cũng như con khỉ trong hang không làm gì chống lại nổi cọp, beo, lang, gấu , rắn, thế mà biết len-lỏi, chờ cho các nước mạnh như cọp, beo, lang, gấu kia chỏan nhau cho đến sụm hết, đúng với lời Sấm “Mã đề dương cước anh hùng tận”, rồi xuất động thì làm gì chẳng làm chúa.
Đó là nhờ vị-trí “phi chiến” của nó mà sau này nó trở nên một nước dẫn đầu thế-giới.
Nếu thế thì nước Việt-Nam chẳng có gì tốt đẹp, vẫn giữ cái cảnh-tượng điêu-tàn cỏ khô đồng cháy, hoang-vu như thế sao?
Ông Tường cũng tin rằng thế giới sẽ bước qua thời-kỳ Thượng-Nguơn, nghĩa là vô cùng tốt đẹp, khí-hậu ôn hòa như trong Sấm Giảng đã nói. Nhưng làm thế nào thế-giới biến hình, thay đổi khí-hậu và trở nên một xã-hội Tân Xuân-thu, nghĩa là trong một năm chỉ có hai mùa ấm và mát?
Sự biến đổi ấy, ông Tường cũng qui cho kết-quả của bom nguyên-tử mà ra.
Ông Tường giải-thích như thế này: bom nguyên-tử mà Nga và Mỹ đem ra dùng sau này sẽ còn mãnh-liệt gấp trăm, ngàn lần thứ bom nguyên-tử đã dội xuống nước Nhựt. Sức nổ của nó, nếu không làm núi tan đất vỡ thì cũng làm quả địa-cầu, vì chịu không nổi mà xê-dịch vị-trí đi. Nó sẽ từ vị-trí hiện-hữu mà xê-dịch qua một vị-trí khác. Do sự xê-dịch ấy, quả địa-cầu ở vào một vị-trí một năm chỉ có hai mùa: Xuân và Thu, khí trời quanh năm rất ấm-áp mát-mẻ, còn ban đêm thì luôn luôn có mặt trăng mọc, sáng cả đêm này qua đêm khác, không hề sai chạy. Cái thế-giới đó, ông Tường gọi là thế-giới Xuân Thu.
Đã đổi vị-trí như thế, đã thay đổi mùa tiết ngày đêm như thế, không nói ai cũng biết: chịu ảnh-hưởng của khí-hậu ôn nhu như thế, từ loài khoáng-vật, đến thực-vật cũng như động-vật, thế-giới sau này sẽ vô cùng đẹp đẽ. Cây cối hẳn tốt tươi, đất đai hẳn thích-hợp cho các loài cây quí báu thì con người hẳn cũng đẹp-đẽ và thông-minh tiến-hóa hơn nhiều.
Ông Tường cho rằng cái xã-hội sau này sẽ tột bực văn-minh, thái-bình muôn thuở, con người sẽ tài trí phi thường. Nếu đem sánh với thời-kỳ Hạ-Nguơn này thì cách biệt không biết bao xa.
Cứ lấy theo thiên-văn-học mà xét thì ông Tường thấy rằng: quả địa-cầu chúng ta đương chuyển từ cung con cá qua cung con cừu, trong mười hai Thiên-cung (Zodiaque). Hiện nay chúng ta còn ở trong cung con cá, một cung mà người đời có tâm-trạng như con cá, hễ gặp nhau là đá,cắn nhau. Bởi thế, ở vào thời-kỳ này, nhơn loại xô đẩy nhau vào con đường chiến-tranh không dứt, tương tàn tương sát. Cung con cá biểu-thị thời-kỳ Hạ-Nguơn. Trái lại, cung con cừu biểu-thị thời-kỳ Thượng-Nguơn, một thời-kỳ con người thông-minh tiến-hóa cao siêu nhứt trong các thời-kỳ. Ông Tường gọi là thời-kỳ của hạng minh-triết. Chẳng những con người trí-hóa thông-minh mà xã-hội lại thạnh-trị dân chúng đâu đâu cũng an-cư lạc-nghiệp. Các nước rất tương thân tương ái cho nên thế-giới trải qua một thời-kỳ thái-bình cả muôn năm, giống như đời Nghiêu-Thuấn.
Đó là cả quan-niệm của ông Hồ-hữu-Tường về vấn đề Tận-thế và sự xây dựng cõi đời Thượng-Nguơn mà ông gọi là xã-hội Xuân Thu, quan-niệm dựa theo khoa-học để giải thích Sấm-Giảng.
Như chúng tôi đã nói: ông Tường vì vướng phải chủ-nghĩa hoài-nghi mà ông mãi tắc-tị, không tiến đến đâu.
Ông Tường nói rằng: Sau trận giặc thứ ba các nước ở miền tiếp cận với Bắc-cực và Nam-cực điều bị nạn lụt nước sôi và sức nổ chuyền của bom nguyên-tử mà tiêu tàn đến cây cỏ cũng không mọc. Trong tình trạng hoang-vu như thế, nước Việt-Nam nhờ ở khu-vực phi-chiến mà tồn-tại, phỏng làm gì với nhân-lực mà xây dựng cõi đời Thượng-Nguơn?
Nếu thế thì cõi đời Thượng-Nguơn cũng vẫn là cõi thế-giới cũ-kỹ này thì thấy gì phân-biệt Thượng-Nguơn với Hạ-Nguơn. Còn mong rằng bom nguyên-tử sẽ làm xê-dịch vị-trí của quả địa-cầu và nhờ đổi vị-trí ấy mà thế-giới sau này sẽ đổi mùa tiết, nhưng lỡ như sức nổ chuyền của bom nguyên-tử không hãm lại được, nó cứ nổ chuyền mãi phỏng quả địa-cầucó bị cháy thiêu, loài người có bị chết luộc vì nạn lụt nước sôi chăng?
Nhưng thật ra Tận-Thế có đúng như các nhà khoa-học, bác-học đã nghiên-cứu không?


Chương thứ VII: Tổng-luận

1-Nên hiểu Tận-Thế như thế nào? ĐỌC qua loạt bài Tận-Thế và Hội Long-Hoa, tưởng cũng nên định-nghĩa rõ Tận-Thế là thế nào?
Có tôn-giáo nêu lên vấn-đề Tận-Thế với ý-nghĩa là tiêu-diệt thế-giới của loài người. Quả địa-cầu này sẽ mất luôn, nghĩa là loài người đều tận-diệt. Có người nảy ra ý-nghĩ rằng: nếu loài người đều chung số phận tận-diệt thì phải làm gì lo Tận-Thế với không Tận-Thế chớ! Nếu biết rằng sắp có Tận-Thế với ý-nghĩa là loài người tiêu-diệt thì cần gì phải lo nghĩ mà chẳng phung-phí cho sướng thân.
Cái luận-điệu này chúng ta thường thấy nhiều người nêu lên để cho rằng: tôn-giáo đưa ra vấn-đề Tận-thế có ý làm cho người đời sợ sự trừng-phạt mà nghe theo các giáo-điều. Cái nghĩa Tận-Thế ấy trái hẳn với luật tuần-hoàn của vũ-trụ.
Ngoài luận-điệu ấy, chúng ta còn thấy luận-điệu của các nhà chiêm-tinh-học và các nhà khoa-học tính tuổi trái đất nêu ra bao nhiêu kết-quả của cuộc tìm tòi và tính toán cho rằng nào là mặt trời còn mấy triệu năm nữa mới nguội, ảnh-hưởng của nó sẽ làm cho quả địa-cầu phải nguội theo mà tắt hẳn đi; nào là quả địa-cầu ngày một khô lần, vì nước một ngày một thấm vào trong ruột trái đất như thuyết của ông Mạc-tên (Martel); nào là mặt đất một ngày một thấp dần vì thời tiết làm hao mòn núi non đất cát, nước mưa đem xuống biển do các nguồn sông rạch, khối đất hao mòn ấy lấp dần đáy biển làm cho nước biển một ngày kia sẽ nhận chìm những phần đất của dân-cư; nào là cái trục của quả địa-cầu một ngày một nghiêng dần, làm cho sức quay của nó một ngày một chậm đi, rồi đến một ngày kia nó sẽ trút dổ v.v.
Những luận-điệu vừa kể cùng đồng hiểu Tận-Thế là một cuộc tiêu-diệt của quả địa-cầu.
Nhưng thật ra danh-từ Tận-Thế nêu ra trong quyển sách này có một đồng một ý-nghĩa tiêu-diệt quả địa-cầu, tiêu-diệt loài người không?
Mặc dầu danh-từ Tận-Thế được nhắc nhở đến luôn, nhưng khi đọc qua Sấm-Giảng, ai cũng nhận thấy rằng: Thời-kỳ Hạ-Nguơn sắp chấm dứt để bước sang thời-kỳ Thượng-Nguơn. Như thế Tận-thế có nghĩa là chấm dứt một thế-hệ này để bước sang một thế-hệ khác, đúng theo cái luật tuần-hoàn của vũ-trụ. Nhưng khổ nỗi, lần đổi dời này của thời-kỳ Hạ-Nguơn, nó không được êm-thắm như lần đổi dời của thời-kỳ Thượng-Nguơn qua thời -kỳ Trung-Nguơn, của thời-kỳ Trung-Nguơn qua thời-kỳ Hạ-Nguơn. Vì đó là những cuộc đổi dời thuận chiều.
Còn lần đổi dời này của thời-kỳ Hạ-Nguơn trở lại thời-kỳ Thượng-Nguơn, từ cái thật xấu trở lại cái thật tốt, bởi nó không thuận chiều cho nên nó phải đau đớn. Nhân loại vì đó mà phải điêu-linh trong cuộc lừa lọc quá khắc-khe của luật đào-thải: tốt còn xấu mất. Đó là một cuộc lừa lọc, một cuộc đổi dời, chớ không phải là một cuộc tiêu-diệt.
Mà làm gì có sự tiêu-diệt quả địa-cầu trong thời-kỳ này. Nếu xét theo thuyết của nhà Phật thì không thể đặt ra vấn-đề Tận-Thế. Nếu nói Tận-Thế, tức nhiên là có sáng-thế, mà như thế là không đúng luật vũ-trụ vô thỉ vô chung của nhà Phật.
Thế-giới sở dĩ được thành-lập là do tạo nghiệp, do tâm niệm vọng-động của chúng-sanh cũng như nhà ngục sở-dĩ có là vì người đời còn phạm tội. Chỉ khi nào không còn tội nhân thì mới không có nhà ngục, cũng như khi nào chúng-sanh không tạo nghiệp, tâm niệm không vọng-động thì mới không có thế-giới này. Có thể chúng-sanh hết tạo nghiệp chăng? Nói tỷ-dụ như chúng-sanh đều đoạn cái gốc luân-hồi, dứt được cái tâm vọng- động đi nữa, thì thế-giới chẳng vì đó mà bị hủy hoại đi, hay không thành-lập?
Tại sao vậy?
Cứ theo thuyết nhà Phật thì trong vũ-trụ có tam-giới: cõi Dục-giới, cõi Sắc-giới và cõi Vô-sắc-giới. Quả địa-cầu của chúng ta ở là một thế-giới trong cõi Dục-giới là cõi còn các điều dục-lạc như: ăn, uống, ngủ, thức, trai, gái. Còn cõi Sắc-giới tuy đã ly được những điều dục-vọng nhưng còn có đủ sắc thân. Đến như cõi Vô-sắc-giới thì không còn sắc thân nữa mà chỉ còn tâm-thức.
Nếu chúng-sanh còn trong vòng luân-hồi thì không sao tránh khỏi luật thăng trầm do nghiệp-lực gây ra. Bởi có luật thăng trầm cho nên trong lúc có người được sạch nghiệp vượt lên thì cũng có chúng-sanh vì nghiệp lực mà giáng xuống. Thế cho nên dầu cho chúng-sanh ở cõi đời này mà được vượt lên hết đi nữa thì cũng chẳng vì đấy phá tan tam-giới được. Chắc gì trong lúc ấy chẳng có chúng-sanh ở cõi Sắc-giới trở xuống cõi Dục-giới. Huống chi theo luật tiến hóa còn bao nhiêu chúng-sanh ở cõi thấp kém hơn cõi đời này chẳng có lúc vượt lên thế-giới này.
Cái luật tuần-hoàn còn thì chưa có thể hiểu theo các nhà chiêm-tinh-học hay khoa-học tính tuổi trái đất kia rằng Tận-Thế có nghĩa là hủy diệt quả địa-cầu.
Đây là một cuộc đổi dời đúng theo lý Tam-nguơn.
Có người nhắc chuyện lại rằng: lúc2-Tận-Thế sẽ giống lần sụp đất Ắc-lăng-tít Khảo-cứu về Ắc-lăng-tít, trên thế-giới hiện nay, có thể chia ra làm hai phái: một phái gồm những nhà ngữ-ngôn-học và cổ-vật-học, muốn tìm lại đất Ắc-lăng-tít như nhà triết-học Bá-lạp-đồ (Platon) đã tả là một cù-lao trước kia nằm giữa khoản Phi-châu và Mỹ-châu, trong biển Đại-tây-dương ngày nay, sau một trận Đại Hồng-thủy hòn đảo ấy sụp đổ không còn dấu vết; còn một phái gồm những nhà địa chất-học, nhân-loại-học và tiền-sử-học --- phái này hiện nay rất đông--- muốn tìm lại đất Ắc-lăng-tít là thế-giới nguyên-thỉ đã di-lưu một giống dân văn-minh.
Cái thuyết nhận rằng Ắc-lăng-tít là một nền văn-minh tối cổ đã tàn tạ sau trận Đại-hồng-thủy, được các giới bác học ngày nay nhìn nhận, nhưng tìm để hiểu cái xã-hội tàn tạ ấy thế nào thì mỗi người đưa ra một giả-thuyết không giống nhau. Nhà địa-chất-học thì dựa theo sự khai-quật của mình mà chấp lấy luận-thuyết của mình là đúng, nhà nhân-loại-học thì dựa theo sự nghiên-cứu của mình mà cho rằng lý-thuyết của mình là hơn.
Ông A. Bessmertny trong quyển “ L’Atlantide” khi khảo qua các giả-thuyết về Ắc-lăng-tít, đã nhận rằng: “Nếu có thể kiểm-điểm một lý-thuyết Ắc-lăng-tít nói về sự phân-liệt của địa-cầu, người ta sẽ thấy một quan-niệm này thay thế một quan-niệm khác, một quan-niệm rất cũ-kỹ được lặp lại với những tài-liệu khác nữa, và như thế, bức tranh toàn diện sẽ luôn luôn trở thành hỗn-tạp”.
Như thế thì với những phương-pháp mò-mẫm từ cuộc khám-phá nầy đến cuộc khám-phá khác của những nhà địa-chất-học, nhân-loại-học v..v…không tìm thấy lại những xã-hội, những thế-giới có trước tiền-sử. Mà dầu có tìm được chăng nữa cũng chỉ tìm được một đôi phần tài-liệu, chớ không thể xây dựng lại những xã hội nguyên-thỉ đúng với toàn diện của nó.
Trong lúc cuộc nghiên-cứu mò-mẫm chưa đi đến đâu, thì có một phái người phát-giác một cách đầy đủ thế-giới Ắc-lăng-tít, không bằng phương-pháp mò-mẫm mà bằng phương pháp trực-giác, nghĩa là dùng tâm-linh soi tỏ lại những việc quá khứ. Với phương-pháp nầy, người ta có thể hồi-ức lại nguồn gốc bất-diệt của quá khứ và thấy rõ những điểm mà người thời nay không thể hiểu nổi.
Cái phương-pháp trực-giác nầy, theo nhà Phật không phải là khó hiểu. Cái năng-khiếu trực-giác ấy không chỉ khác hơn Túc-mạng-thông trong Lục-thông của nhà Phật. Kẻ tu-hành đắc đến quả A-La-Hán đều chứng được Lục-thông. Túc-mạng-thông là một năng-khiếu thấy rõ lại các tiền-kiếp.
Ai có đọc truyện Tiền-thân của Phật Thích-Ca cũng nhận thấy khi Ngài đắc đạo rồi, nghĩa là mở Lục-thông. Ngài kể lại chẳng những tiền-kiếp của Ngài mà còn bao nhiêu quốc-độ trong Tam-thiên Đại-thiên thế-giới. Ngày nay những người có huệ cũng có cái năng-khiếu mà người Âu Tây gọi là trực-giác đó. Ai có đến hầu chuyện với người phát huệ, thử đem chuyện cổ kim ra hỏi, mới thấy chỗ kỳ-diệu là người phát huệ ấy vốn là kẻ không học, nhưng đối đáp một cáh thông-minh lạ thường, thông hiểu cả việc quá khứ vị lai. Tuy gọi rằng huệ chớ kỳ thật là đã mở Túc-mạng-thông.
Ông Rudolf Steiner đã dùng năng-khiếu trực-giác ấy mà thuật lại thế-giới Ắc-lăng-tít. Theo ông, sở-dĩ người thời nay không còn hiểu gì về thế-giới thần-tiên của đất Ắc-lăng-tít, là vì “khi thế-giới này sụp đổ thì khí trời dày đặc ở thời-kỳ Ắc-lăng-tít, trải qua một cuộc thay đổi”. Đến lúc đó thì cuộc đời thần tiên trước kia tan dần và thế-giới chói rọi của dân Ắc-lăng-tít chỉ còn lưu lại trong ý-thức của người ở thời-kỳ Trung-Nguơn một ký-ức mang-máng của thời-đại hoàng-kim.
Cứ theo phái trực-giác, thì Ắc-lăng-tít là một thế-giới cực-kỳ văn-minh, vì trận Đại Hồng-thủy xảy ra trước đây 20.000 năm, mà sụp đổ. Dân ở thời-kỳ đó rất thông-minh, có một ký-ức rất phát-triển, nhờ đó mà làm chủ được những điều mà người đời gọi là sinh-lực. Cũng như thời nay, chúng ta dùng than đá tạo ra sức động-cơ, dân Ắc-lăng-tít dùng sức sinh-nở của vạn-vật mà giúp vào kỹ-thuật của mình.
Ông Steiner cho biết rằng tiền-bối của giống dân Ắc-lăng-tít là giống dân xứ Lemurie, một thế-giới ở phía Nam Á-châu hiện nay, đã sụp đổ từ lâu. Một phần ít giống dân ấy còn sót lại xây dựng thế-giới Ắc-lăng-tít. Và đến lượt giống dân này, một phần lớn tàn tạ, còn một phần ít được di-lưu lập thành giống dân Aryens ngày nay. Ông Steiner cho rằng giống dân Lemurie, Ắc-lăng-tít và Aryens là những giống dân nguyên-thỉ của nhân-loại.
Ba giống dân này hiệp với hai giống dân xưa nữa và hai giống dân hậu-duệ của giống dân Aryens, lập thành bảy giống dân chánh của nhân-loại.
Cứ theo ông Steiner thì giống dân Ắc-lăng-tít có những quyền-lực trong lời nói mà người thời nay không có thể có. Lời nói của họ có năng-lực như các câu chú, có thể làm cho cây cối nảy nở hay thú dữ phải phục tùng v.v…
Các thời-đại hoàng-kim của thế-giới Ắc-lăng-tít ấy bị sụp đổ sau một trận Đại Hồng-thủy.
Theo ông Frenzold Sehmidt thì đã có bốn lần đại tai đã xãy ra: lần đói kém xảy ra khắp mặt địa-cầu, 70.000 năm trước Tây lịch; lần sụp đổ Tháp Babet, 50.000 năm; lần Thiên hỏa, 35.000 năm; lần Đại Hồng thủy, 20.000 năm trước Tây lịch, chính lần Hồng-thủy này nhận chìm đất Ắc-lăng-tít.
Lần đại biến sắp tới đây sẽ giống lần sụp đổ Ắc-lăng-tít. Nhưng nó sẽ diễn ra như thế nào? Đức Huỳnh Giáo-chủ dưỡng bịnh ở nhà thương Chợ-quán, một hôm bác-sĩ Trần-văn-Tâm cai-quản bịnh-viện ấy đến hỏi Ngài về ý-nghĩa của hai tiếng Tận-Thế đã thấy nói trong các Sấm-Giảng thì Ngài đáp rằng: Ông hãy tìm quyển sách nói về trận sụp đất Ắc-lăng-tít (Atlantide) mà đọc. Trận sụp đổ tới đây sẽ giống như trận sụp đất.
Như thế thì danh-từ Tận -Thế không có nghĩa là một sự hủy diệt quả địa-cầu mà chỉ là một cuộc thay đổi địa hình như kỳ sụp đất Ắc-lăng-tít.
Nhưng thế-giới Ắc-lăng-tít thế nào và sự sụp đổ của nó ra sao?


3-Tận Thế và Hội Long Hoa Xảy Ra Như Thế Nào?
Ông Thanh-Sĩ có viết
Tận-Thế bằng cách nào?
Đó là một cuộc lọc lừa lớn lao và kỳ-diệu của Đức Ngọc-Đế mà với trí phàm con người khó thể nghỉ bàn được vì nó sẽ làm thay đổi được tất cả vạn-vật một cách mầu-nhiệm và chớp nhoáng. Sau một cuộc lở đất long trời tối tăm mù-mịt, người đứng cách nhau trong gan tấc không thấy, tiếng cây ngã đá xiêu quên nghe và có những lời khóc than kêu cứu thảm thiết mà không ai làm sao đỡ-gạc cho nhau được. Trong lúc đó hốt nhiên những cái cũ-kỹ, những cái trái ngược đạo-lý, những cái đảo lộn nhân-tâm và những điều không được tương-ứng với cơ tạo-hóa bên trong cũng như bên ngoài, con người thảy thảy đều bị tận-diệt hết cả.
Về bên ngoài của con người:
Những loại thuộc về khoáng-vật như đao, kiếm, súng óng, bom đạn v.v…
Những loại thuộc về thực-vật như cây có gai, cây có chất hôi, chất độc và cây vô-dụng vô ích v.v…
Những loại thuộc bề động-vật như rắn, rít, sói,lang, beo, gấu, trâu, bò, mèo, chó v.v…(1)
Nói tóm lại các loại bên ngoài con người bất kỳ thứ nào, dù khoáng-vật, thực-vật hay động-vật cũng vậy, hễ là loại không có ích cho thời đó về sự mát mẻ cũng như về sự cần dùng mà ngược lại còn làm tổn hại cho con người thì bị tiêu-diệt ngay.
Về bên trong của con người:
Nhứt thiết về ngôn- ngữ, tư-tưởng và hành-động bất công bất chánh, không đạo không đức, đê-tiện xấu-xa, càn-ngang thô-lỗ v.v…mà con người có từ trước đến giờ điều bị tiêu-diệt ngay trong lúc biến-thiên ấy.
Tại sao? Vì kẻ đã có những bẩm-tánh và hành-vi tồi-tệ chắc-chắn không được tồn-tại; trái lại người được tồn-tại trong thời đó nhứt-định không có những chỗ xấu xa kia.
Tại sao Đức Ngọc-Đế có quyền tiêu-diệt được cả vạn-vật ở quả địa cầu này? Vẫn được và càng được nhiều hơn nữa trong thời-kỳ mạt-pháp này bởi lẽ Ngài là một vị cầm cán một cơ-quan chưởng-quản cả vạn vật ở cõi ngũ trược-ác thế này, nên chi lúc nào Ngài cũng có quyền chiếu theo công-lý của luật nhân quả báo-ứng mà thưởng phạt vạn vật ở thế-gian. Đây chẳng khác nào một cuộc trừng-thanh của một chánh-phủ.
Tuy nhiên, trước khi đem ra trừng trị vạn-vật mà nhứt là người về những tội lỗi hung hăng giảo-quyệt thì Đức Ngọc-Đế cùng Đức Phật đồng ý cho các vị Thinh-văn, Duyên-Giác, La-Hán, Bồ-Tát và các bực Thần, Tiên gấp rút lâm phàm cùng một khẩu-hiệu cùng một giáo-pháp (song có nhiều thể-thức khác nhau, ấy là tùy theo căn cơ và địa vực) để dạy dổ kêu réo những người có thiện-căn, có âm-đức mau mau hồi đầu thức tỉnh lánh dữ về lành hầu có nhờ sự ủng-hộ của các đáng Tiên, Phật, Thánh, Thần để tránh khỏi cơ tận-diệt tới đây. Đồng thời các vì thiêng-liêng ấy cho người đời biết trước Hội Long-Hoa sẽ mở tại thế-gian ở miền Nam nước Việt.
Hội Long-Hoa như thế nào?
Long-Hoa là một hội chọn lựa những phần-tử ưu-tú có đạo-đức chơn chánh, có hiếu hạnh đầy đủ, có trung-nghĩa vẹn toàn, nói tóm lại là những người tâm tánh trong sạch hiền lương để lập lại cõi đời an-lạc công bằng ở thời-kỳ Thượng-Ngươn.
Trong khoản kế cận Hội Long-Hoa, tất cả loài người loài vật cho đến thảo-mộc côn-trùng trên thế-gian đều ở trong cảnh giết hại tàn-phá và đau đớn hơn hết là con người đua nhau nồi da xáo thịt gây nên nạn đói đau thê-thảm.
Đến ngày Hội Long-Hoa sẽ có nhiều việc nhiệm mầu không thể tưởng-tượng được, nào là hai phái tà-giáo và chánh-giáo đua nhau trổ tài đấu phép làm kinh thiên động địa, nào là loài người và loài thú sát-hại nhau làm thần sầu quỉ khóc. Trong cảnh ấy, hai phái chánh-giáo và tà-giáo xô nhau đến cảnh giết chóc xương chồng tợ núi, máu chảy thành sông mà chung qui phái chánh-giáo được trọn thắng, nhờ bí-pháp của Đức Phật phù trợ. Còn những loại thú dữ do phép mầu của Thần Tiên hóa hiện để sát phạt loài người có lòng ác độc, tuy mang lốt người mà chẳng chút giống người, chỉ biết khu danh trục lợi ích-kỷ tổn-nhân, nói tóm lại là lòng của họ như thú-vật nên bị thú-vật giết hại đúng theo phản-lực nhân-quả. Sau khi trừ xong những hạng ác-nhân thì các vị Thần Tiên thâu phép mầu lại và các loại thú dữ không còn nữa.
Đến đây là lúc các vị Tiên, Phật, Thánh, Thần đồng giáng phàm để tùy theo nhân duyên mà cứu độ nghĩa là người có duyên với Phật thì được Phật rước về cõi Phật, có duyên với Tiên thì được Tiên rước về cõi Tiên còn những người vào bảng Phong-Thần thì làm Thần, những người kém đức-hạnh hơn mấy hạng nói trên thì ở lại làm dân hoặc làm quan phò Chúa Thánh.
Có một điều lạ nhứt là phần nhiều và có thể nói và gần hết các vị cựu thần trung-quân ái-quốc của Việt-Nam từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần trở lại đây đều tái kiếp.
Trong cảnh tà chánh phân-tranh nhân-vật cấu xé đó, Đức Di-Lặc ra đời lập Hội Long-hoa có cả chúng-sanh của ba ngàn thế-giới tham thính như Thính-Văn, Duyên-Giáo, La-Hán , Bồ-Tát, chư Tiên, chư Thần, Trời, người, rồng, hổ, điểu v.v… đều xoay quanh bửu tòa của Ngài để nghe những lời vi-diệu nhiệm-mầu chưa từng có. Ngài sẽ thống nhứt tất cả kinh luật lại làm một khiến cho tất cả chúng-sanh không còn sự tranh-chấp câu-nệ đạo này chánh đạo kia tà. Ngài là vị thứ năm trong năm vị Phật hiền-hiếp. Vào thời-kỳ mạt-phát này đến lượt Ngài ra đời kế truyền chánh-pháp của Đức Thích-Ca bởi sau khi Đức Thích-Ca diệt-độ đến nay đã hơn 2500 năm (2515 năm theo Phật-lịch), lời di-giáo, bị sai lạc tinh-lý vì bị truyền qua dịch lại nhiều lần. Càng nhờ Ngài mà nhân-loại sẽ được một thế-giới trang-nghiêm, thanh-lịch, an lạc phi-thường. Đường đi như lót cẩm-thạch, cỏ tợ nệm bông. Người đẹp như Tiên không làm có ăn, không may có mặc, cư xử nhau rất nên hiền-hòa lịch sự. Với mỹ-lệ ấy, con người lại có cái đặt-biệt là không cánh mà bay, sống lâu muôn tuổi, tri-hóa thông-minh một cách dị-thường. Vì phần nhiều là người thượng-cổ tái-kiếp nên phong-tục tập-quán được giữ gìn nghiêm minh liêm-khiết.
Đây là nói ngay ở sứ Việt-Nam. Sở-dĩ nước Việt-Nam được cái diễm- phúc như nói trên là bởi các vì vua chúa cho đến quan dân Việt-Nam vào đời Đinh, Lê, Lý, Trần trở lại đây phần nhiều đều qui-ngưỡng về Phật đạo và Nho-đạo một cách thâm-thiết. Trong đó có một vì vua phát nguyện sau khi thành đạo sẽ trở lại chủ-trì nền đạo và phong-tục Việt-Nam. Nhờ công-quả và công-đức ấy mới khiến thay đổi được địa vị của nước Việt-Nam vậy.
Còn nước Việt-Nam sẽ trở thành địa-điểm trung-ương của đời Thượng-Nguơn là vì tuần-tự theo định-luật tuần-hoàn của cơ tạo-hóa.
Long-kiến, ngày 20-10-52.


(1) Sở-dĩ không có loại con trâu bò là vì đến thời Thượng-Nguơn khỏi cày cấy, ngoài đồng tự-nhiên có lúa mọc sẵn, mổi khi đến kỳ lúa chín thì nó tự lăn vào nhà khỏi cần phỉa gặt hái. Còn không có chó mèo bởi trong nhà không có chuột bọ và không có trộm cắp.

4-Tận-Thế lần này là một cuộc đại tiến-hóa Cứ theo lý Tam-nguơn thì luận tuần-hòan của vũ-trụ (vũ-trụ theo nghĩa không-gian và thời-gian) không bao giờ dứt.
Cứ từ Thượng-Nguơn chuyển sang xuống Trung-Nguơn, và từ Trung-Nguơn chuyển xuống Hạ-Nguơn, là một cuộc tuần-hoàn theo chiều thối-hóa. Còn từ Hạ-Nguơn chuyển lên Thượng-Nguơn, nghĩa là từ cõi đời thật xấu chuyển lên cõi đời thật tốt, là cuộc tuần-hoàn theo chiều tiến-hóa. Chúng ta ở vào thời-kỳ chuyển biến từ Hạ-Nguơn sang Thượng-Nguơn: tức là ở vào thời-kỳ chuyển biến tiến-hóa.
Cuộc Tận-Thế hay đúng ra cuộc chuyển biến lần này là một cuộc đại tiến-hóa chẳng những cho quả địa-cầu mà cho cả vạn vật, chúng-sanh, tiếng chúng-sanh gồm cả phàm lẩn Thánh.
Nói về các đấng siêu-phàm, nhờ lần tiến-hóa này mà được tròn bản-nguyện.
Đây chúng tôi xin xét qua một vài đấng siêu-phàm.
Ai có đọc Kinh Địa-Tạng cũng hiểu rằng Địa-Tạng Bồ-Tát từ thác sanh làm Bà-la-môn nữ và Quang-Mục nữ trong đời quá khứ có phát ra một lời nguyện hết sức bi-thiết. Ngài nguyện rằng: Tôi từ ngày nay cho đến tột đời vị-lai không biết bao nhiêu kiếp số, quyết vì những chúng-sanh tội khổ ở trong sáu đường mà thi-thiết ra nhiều phương-tiện, khiến cho giải-thoát được hết, rồi thân tôi đây mới thành Phật-đạo.
Vì bản-nguyện bi-thuyết ấy mà trải qua hằng-hà sa số kiếp, mặc dầu Địa-Tạng đã chứng quả Bồ-Tát, song vì số chúng-sanh tội lỗi trong sáu đường chưa giải-thoát hết mà Ngài vẫn ở mãi địa vị Bồ-Tát chưa thành Phật-đạo. Ngài thường hóa hiện ở cõi Địa-ngục để giáo-hóa chúng-sanh, và cũng nhờ nguyện-lực hoằng thâm của Ngài mà chúng-sanh tội-lỗi được cứu-độ.
Đến ngày Hội Long-Hoa khai mở để lập lên cõi đời Thượng-Nguơn, Địa-Tạng Bồ-Tát sẽ được thoả mãn bản-nguyện mà thành Phật-đạo.
Vì sao? Là vì Hội Long-Hoa là một Đại-hội hiệp cả ba cõi : cõi Trời cõi người và cõi đất tức là cõi âm, để công-đồng thưởng-phạt. Những vì ở cõi Trời như các vị Bồ-Tát, La-Hán, Duyên-Giác, Thinh-Văn cùng các vị Thiên-Long, Bát-bộ sẽ qui tụ xung quanh bửu tòa của Phật Di-Lặc, cũng như chúng-sanh ở cõi âm và cõi dương đều hội nhau ở đó để chịu sự phán-quyết lần cuối cùng.
Những người đắc quả lên cõi trên thì được các Ngài ở cõi trên rước, những người chưa đắc quả nhưng không tội lỗi thì ở lại lập đời Thượng-Ngươn, còn nhứt thiết chúng-sanh tội lỗi thì đều phải chịu tiêu-diệt. Như thế là cõi Địa-ngục đã được xóa bỏ, đường tội lỗi không còn ai, thì tức-nhiên là bản-nguyện của Địa-Tạng Bồ-Tát đã mãn. Ngài sẽ thành Phật-đạo.
Cũng như Đức Di-Lặc đã đắc quả Bồ-Tát, bấy lâu vẫn ngự ở cung Trời Đâu-xuất, ngày Hội Long-Hoa mở ra, Ngài sẽ ngồi dưới cội cây Long-Hoa mà đắc quả Như-Lai, hoàn thành bản-nguyện của Ngài là tạo lập một quốc-độ vô cùng trang-nghiêm giải-thoát bao nhiêu sự khổ não cho người đời như sự ăn, mặc, ở nhứt là phương-diện sanh-sống con người ở, thời-kỳ Thượng-Ngươn sẽ được giải-thoát một phần lớn, nhờ ở khí-hậu điều-hòa tốt đẹp, nhờ ở đất đai thích hợp cho sự nảy nở của mễ cốc, tự-nhiên mọc lên khỏi cần cày cấy.
Đó là chỉ đơn cử có hai vị Bồ-Tát đã thõa-mãn được bản-nguyện trong cuộc tạo-lập thời kỳ Thượng-Nguơn, chớ ngoài ra còn nào là các vị, từ bực Thinh-Văn, Duyên-Giáo cho đến bực La-Hán, đã tạo công-đức trong thời-kỳ Hạ-Nguơn này cũng đều được tăng quả-vị.
Đó là chưa nói đến chúng-sanh trong cõi đời này. Đã đành những chúng-sanh tội lỗi phải bị tiêu-diệt, chớ thật ra là thối-hóa. Những chúng-sanh ấy vì không còn thích hợp với thời Thượng-Nguơn phải sa đọa hoặc vào một thế-giới thấp hèn nào tương-ứng với trình độ tội lỗi của họ hoặc phải làm cây cỏ trong thời kỳ Thượng-Ngươn, ngưng-trệ sự tiến-hóa trong mấy chục ngàn năm chờ chừng đến một ngày kia cõi đời trở nên thích-hợp với trình-độ tiến-hóa của họ thì họ sẽ tái-kiếp. Nhưng ngoài hạng người thối-hóa ấy, hầu hết là được tiến-hóa. Người đắc-quả về cõi trên thì được rước đi đã đành mà những người dầu không đắc-quả, còn ở lại cõi đời Thượng-Nguơn, cũng sẽ được bao nhiêu cơ hội thuận tiện giúp cho họ tiến-hóa một cách mau chóng.
Thử đem cõi đời Hạ-Nguơn so sánh với cõi đời Thượng-Nguơn, thì đủ thấy người ở cõi Hạ-Nguơn này thiếu điều-kiện để tu cho đắc quả bằng người ở cởi đời Thượng-Nguơn.
Ở cõi đời cơ-cực như thế này, ngày nào cũng lao tâm khổ trí với miếng ăn, phải làm lụng, cày cấy cực nhọc mới có lúa mà ăn thì dầu có muốn tu hành cũng không được nhàn rảnh mà sớm kệ chiều kinh.
Chí như người ở cõi đời Thượng-Nguơn thì về miếng ăn họ khỏi cần lo: ngoài đồng lúa mọc sẵn, lại khi lúa chín tự nó lăn vào nhà; như thế họ rãnh tâm trí mà tu niệm.
Chẳng những thế, họ được sống gần các vị Tiên Phật, ngày ngày thấy Tiên Phật trước mắt, lại cón được Phật Di-Lặc mở trường thuyết-pháp, hóa-độ dìu-dắt cho. Nhờ đó mà tiến hóa rất mau, tu hành sớm đắc quả.
Như thế, đủ thấy rằng lần Tận-Thế kỳ này để lập lên cõi đời Thượng-Nguơn là một cuộc đại tiến-hóa của chúng-sanh. Và cõi đời Thương-Nguơn sẽ là một nấc thang tiến-hóa giúp cho người ở thời đó bước lên quả vị Tiên Phật.

5-Chắc-chắn thấy Phật Tiên thừa hạc lâm phàm Có thế nào thấy Phật Tiên Thần Thánh thừa hạc xuống trần?
Ở thời-kỳ Hạ-Nguơn này mà đòi cho thấy được Phật Tiên Thần Thánh thừa hạc lâm phàm, hay thấy được tạn mắt mới tin, thì chẳng khác mấy nhà khoa-học đòi đi lên cung trăng hay các hành tinh vậy.
Có thể thực-hiện những điều đòi hỏi ấy ở cõi đời-ác trược này chăng?
Không thể được, mà cũng có thể được.
Tại sao không thể được?
Là các đấng thiêng-liêng kia ở cõi thượng-giới, còn cõi đời của chúng ta là cõi hạ giới, cách nhau hai mươi mấy từng Trời, mỗi giới thích-hợp cho mỗi thể-chất thì làm gì người ở cõi thượng-thanh kia có thể xuống cõi hạ trược này với nguyên thể được chớ.
Cứ theo Kinh Thủ Lăng-Nghiêm thì từ cõi Dục-giới trở lên cõi Vô-sắc-giới có 28 từng Trời, mỗi từng thích ứng cho mỗi từng chúng-sanh.
Chúng-sanh nào toàn về phần tưởng thì nhẹ nhàng bay lên, nên khi chết sanh lên cõi Trời. Bằng tình ít tưởng nhiều thi thể nhẹ cất chẳng được cao lắm, tức làm hàng Tiên.
Bằng tình và tưởng cân nhau thì chẳng bay lên sa xuống, tức là đầu-sanh trong cõi người. Cũng bởi có nửa tưởng nên “ tưởng ” thuộc về sáng mà thông-minh, cũng bởi có nửa tình, nên “ tình “thuộc về tối mà ngu độn. Nếu tình nhiều tưởng ít thì trôi tấp vào hoành-sanh, nặng thì làm thứ có lông, nhẹ thì làm nòi có cánh. Bằng bảy phần tình ba phần tưởng thì chìm xuống thuỷ-luân, rồi sanh nơi hỏa-tế là chỗ thủy hỏa giáp nhau, mà thọ khí lửa dữ, làm thân ngạ-quỉ thường bị lửa thiêu đốt. Còn chín phần tình một phần tưởng thì chìm dưới suốt thấu hỏa-luân, thân bị sa vào chỗ gió lửa, hai thứ giao thông, nhẹ thì sanh nơi Địa-ngục Hữu-gián, nặng thì sanh nơi Địa-ngục Vô-gián. Đến như toàn về phần tình tức là phải xuống tới A-tỳ Địa-ngục.
Như thế đủ thấy mỗi cõi chỉ thích-hợp cho mỗi loài chúng-sanh, khác nhau ở chỗ tình, tưởng nhiều ít mà thôi.
Trong quyển Đại-thừa Chơn-giáo cũng thấy có đoạn nói về sự sai-biệt của linh-hồn ở cõi như thế này:
“Linh-hồn của con từ cõi Bồng-Lai Tiên-Cảnh hoặc Cực-Lạc Niết-Bàn mà muốn đầu thai xuống cõi hạ-giới là cõi thứ 7 thì đã phải trải qua 6 cõi hư-linh ở thượng-tầng không-khí, mà mỗi khi trầm xuống cõi hư-linh thì linh-hồn phải chịu dưới quyền cấu-tạo của Tạo-hóa chi cơ, nghĩa là phải thọ bẩm thần-khí ở cõi hư-linh đó mà bao bọc thêm ra ngoài một lớp thể-chất nữa, mà hễ càng trầm xuống xa chừng nào thì lại càng nặng nề thêm chừng nấy. Khi trầm xuống đến cõi Dục-giới này lại còn phải mang thêm một xác thân phàm-tục đủ điều…”
Để hiểu hai đoạn vừa dẫn ở kinh Thủ Lăng-Nghiêm và Đại-thừa Chơn-giáo, chúng tôi xin đưa ra một tỷ-dụ cụ-thể.
Những nhà hải-dương-học, khi thảo-sát những loài động-vật ở sâu tám chín ngàn thước dưới đáy biển Thái-bình-dương và Đại-tây-dương, có gặp một giống cá kỳ-quái, hai mắt sáng như đèn, muốn đem lên mặt nước để khảo-nghiệm. Nhưng khi vừa đưa nó lên tới mặt nước thì nó nổ tan. Điều đó đủ chỉ rằng loại cá ấy chỉ thích-hợp với áp-lực nước đáy biển chớ không như các loại cá quen sống gần mặt nước; bởi thế khi đem nó lên mặt nước, vì chịu không nổi áp-lực ở từng trên, nên chi nó phải nổ.
Điều nhận xét này cho ta thấy rằng: ở cõi trọng-trược này mà muốn thấy tạn mắt Phật Tiên Thần Thánh ở cõi thượng thanh kia, thì chẳng khác nào loài cá ở tám, chín ngàn thước sâu dưới đáy biển mà muốn đưa lên mặt nước vậy. Muốn cho loài cá lên mặt nước mà còn sống thì ít ra thể-chất của nó phải giống thể-chất của loại cá ở mặt nước, có đủ các bộ-phận thích-ứng với hoàn-cảnh sống ở mặt nước.
Đến như người phàm-tục mà muốn thấy tận Phật tiên cũng thế; hoặc người phàm phải có thể-chất nhẹ-nhàng như Phật Tiên, nghĩa là “ tưởng” nhiều “ tình” ít, hoặc hoàn-cảnh cõi trần-trược này biến-thể để thích-ứng cho Phật Tiên hóa-hiện.
Đến khi đó thì người trần sẽ thấy được Phật Tiên tại thế. Và ngày đó là ngày sấm nổ, ngày mở Đại-Hội Long-Hoa. Tiếng sấm nổ có hiệu-lực làm thay đổi hẳn hoàn-cảnh của quả địa-cầu, làm biến chất ngũ-hành.
Điều này không có chi là khó hiểu. Ông Rudolf Steiner khi khảo về đất Ắc-lăng-tít, nhận thấy rằng ở thời kỳ Ắc-lăng-tít, lớp không-khí bao bọc quả địa-cầu rất dày-đặc hơn thời nay, còn trái lại chất nước thì loãng hơn. Như thế đủ chứng rằng trận Đại Hồng-thủy làm sụp đổ đất Ắc-lăng-tít, đã làm cho ngũ-hành biến chất. Sau này khi tiếng sấm nổ làm thay đổi địa-hình, ngũ-hành cũng biến chất đi, tạo nên một hòan-cảnh thích-hợp cho Phật Tiên giáng thế.
Nhưng đến lúc đó, chẳng phải người nào cũng có thể thấy được vì muốn thấy được Phật Tiên tạn mắt, ít nhứt thể-chất phải phù-hạp với hòan-cảnh ấy thì mới sống được.
Trong quyển Đại-thừa Chơn-giáo có đoạn giải rằng:
“Một ngày kia, những con nào biết đạo-đức, ăn chay lạt, thân thể nhẹ-nhàng hiệp với Tiên-thiên thì lúc dương sanh mới có thể chịu nổi với khí ấy mà còn vững-vàng sống đặng; còn những con vô Đạo bị cả khí Hậu-thiên nên tới ngày âm tuyệt dương sanh ấy, chúng nó sẽ không bao giờ hứng chịu nổi khí chơn-dương, nên phải dứt hơi lìa mạng.”
Ông Thanh-Sĩ cũng nhận rằng: “Nhứt thiết về ngôn-ngữ, tư-tưởng và hành động bất công bất chánh, không đạo không đức, đê-tiện xấu xa, càn-ngang thô-lỗ v.v… mà con người đã có từ trước đến giờ đều bị tiêu-diệt ngay trong lúc biến-thiên ấy.”
Như thế đủ thấy rằng muốn thấy được Phật Tiên, phải là người có thể-chất phù-hạp với hòan-cảnh Phật Tiên. Chớ dưng không mà đòi cho thấy được Phật Tiên mới tin thì không khác bầy tôi ở triều vua Tự-Đức không tin lời điều-trần của các sứ-thần Việt-Nam đi Pháp về. Ai có đọc lịch-sử Việt-Nam cận-đại hẳn còn nhớ vua Tự-Đức có gởi phái-đoàn qua Pháp để điều-đình. Khi trở về ông Phạm-phú-Thứ cũng như ông Phan-thanh-Giản có làm tờ điều-trần kể rõ sự văn-minh kỹ-xảo của người Âu-Tây như cho biết ở xứ người xe không kéo mà chạy, thuyền không chèo mà đi, đèn đốt trở ngọn xuống mà cháy v.v.., rồi yêu-cầu nhà vua hãy sớm liệu gởi du học-sanh ra xứ ngoài. Ngoài ra ông Nguyễn-tường-Tộ có thảo ra 18 tờ điều-trần cũng nói về văn-minh cơ-xảo Âu-Tây và yêu-cầu cho học-sanh xuất dương; nhưng bầy tôi của vua Tự-Đức không tin, cho đó là đặt điều nói dóc. Đến chừng họ tin được, thấy tạn mắt xe không kéo mà chạy, thuyền không chèo mà đi, đèn trở ngọn xuống mà cháy v.v… thì ô hô! Nước Việt-Nam đã mất.

6-Trước cơ tận-diệt hầu kề và Hội Long-Hoa sắp mở
chúng-sanh liệu thế nào?
Từ Cơ-Đốc-giáo trải qua Phật-giáo, Cao-Đài-giáo, phái Phật-Thầy Tây An, Phật-giáo Hòa-Hảo,cho đến nhiều dị-nhân ra đời gần đây đều cho biết cơ tận-diệt đã gần và Hội Long-Hoa sẽ mở. Vậy đối với lời cảnh-thế của Phật Tiên, chúng-sanh phải liệu cách nào?
Như chúng ta đã biết: vì người đời cứ mãi dấn thân trên con đường tội lỗi, nên chi Đức Ngọc-Đế định xử tiêu. Nhưng trước khi phán-quyết lần cuối cùng. Ngài đồng ý với Đức Phật cho các vị Thánh Tiên lâm phàm kêu gọi chúng-sanh hướng thiện quày đầu một lần chót. Từ cơ bút của Cao-Đài-giáo cũng như Sấm-Giảng của phái Phật-Thầy Tây-An và Phật-giáo Hòa-Hảo, đều gấp rút dạy bảo chúng-sanh tu sao cho kịp kỳ Đại-Hội Long-Hoa.
Cái mục-đích là đạt đến Hội Long-Hoa để rồi qua thời-kỳ Thượng-Nguơn có đủ cơ-hội thuận-tiện, như được Phật Di-Lặc mở trường phổ-hóa mà tu cho đắc chánh quả. Đã là thời-kỳ gấp rút thì không thể tu với những pháp-môn xa vời để đắc ngay quả Phật Bố-Tát hay La-Hán được, mà phải tu tắt, tu để được sống còn trong ngày Hội Long-Hoa.
Đây chúng tôi xin đưa ra một tỷ-dụ dễ hiểu:
Ai cũng biết bất cứ pháp-môn tu-hành nào cũng để đạt đến cứu-cánh là đảo bỉ-ngạn, nghĩa là đến bờ bên kia, bờ của Cực-Lạc Niết-Bàn hay Thiên-Đàng Tiên-Cảnh. Con đường từ bờ bên này đến bờ bên kia là một cái đại dương to lớn. Như thế muốn đi đến bờ bên kia, phải đóng những thuyền lớn, tất nhiên phải nhiều công phu. Về phương-diện tu-hành phải dày công tu luyện.
Nhưng trong lúc gia công đóng một chiếc thuyền cho lớn mà chưa xong, thì có người cho biết là sắp có trận bão to lụt lớn, mà ngoài đại dương kia có một đảo giúp cho người ta núp được trận bão lụt ấy, lại rất dễ là ai ai cũng có thể đi đến được với một chiếc xuồng con, thuyền nhỏ chẳng mất nhiều công kiến-tạo. Vậy thì người đời, có nên gấp rút đóng một chiếc thuyền nhỏ xuồng con để ra đảo ẩn núp bão lụt, rồi sau sẽ đóng chiếc thuyền có thể đi thẳng đến bỉ-ngạn, hay là cứ ngồi đó lui-cui lo đóng chiếc thuyền cho thật lớn mà không rồi để bị trận bão lụt nhận chìm lôi cuốn mất.
Cái ý-nghĩa câu tỷ-dụ này cũng giống ý-nghĩa các đấng siêu phàm cho ta biết về cơ tận-diệt và Hội Long-Hoa. Cơ tận-diệt ví như trận bão lụt, còn Hội Long-Hoa ví như hòn đảo kia để ẩn núp cơn dông tố.
Có hiểu như thế, chúng ta mới hiểu tại đâu các đấng siêu-phàm không bảo chúng-sanh đóng những chiếc thuyền to mà chỉ bảo đóng những chiếc xuồng con hay thuyền nhỏ, nghĩa là pháp-môn tu tắt, cốt làm sao đạt đến Hội Long-Hoa.
Nhưng thế nào gọi là pháp môn tu tắt?
Sỏ-dĩ người gây quá nhiều tội lỗi là vì người đời cứ mãi làm ác. Nay muốn cứu với họ chỉ có cách là làm sao cho họ bỏ ác về lành trước đã. Đó là điều căn-bản, bất cứ đạo-giáo nào cũng dạy như thế, Phật làm bài kệ rằng:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành;
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo.
Nghĩa là:
Điều ác đừng làm,
Điều lành gồm làm.
Tự lắng lấy lòng,
Phật dạy như thế.
Nhưng thế nào gọi là làm lành? Nếu không phải là hành nhân-đạo là mối đạo mà đạo-giáo nào cũng khuyên làm tròn trước nhứt. Nếu không thế, sao lại có câu: Dục tu Tiên-đạo, tiên tu nhân-đạo; nhân-đạo bất tu, Tiên-đạo viễn hỹ; nghĩa là: Muốn tu Tiên-đạo, trước phải tu nhân-đạo, nhân-đạo mà không tu thì Tiên-đạo nó đi xa vậy.
Đồng với lý này, Đức Huỳnh Giáo-chủ có viết:
Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần.
Hay là:
Tu đền nợ thế cho rồi,
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.
Như thế đủ hiểu rằng: muốn tu cho thành Phật Tiên chi chi, cũng phải tu cho rồi cái đạo làm người trước đã. Có xem tiền-kiếp của Phật Thích-ca mới thấy trước khi đạt đến quả Phật, Ngài đã trải qua bao nhiêu kiếp hành tròn nhân-đạo.
Trong truyện Lục giả Tiên tung có kể lại rằng: có người lên núi tìm chơn-sư để học đạo, nhưng khi gặp chơn-sư thì ngài không tiếp nhận mà bảo phải trở xuống trần lập cho có công-đức rồi trở lên ngài mới truyền giáo cho. Như thế cũng nhận cái lý phải tu nhân- đạo trước. Trong truyện Hứa-Sử cũng dạy như vậy.
Nhưng đạo làm người gồm những gì? Đức Phật Thầy Tây-An cũng đồng với Phật mà nhận rằng: đạo làm người có bốn cái ân lớn cần phải làm cho tròn là:
1o Ân Tổ-tiên cha mẹ,
2o Ân đất nước,
3o Ân tam-bảo (Phật, Pháp, Tăng),
4o Ân đồng bào và nhân-loại (với kẻ xuất-gia thì ân đàn-na thi chủ).
Nếu bốn cái ân này mà làm không tròn thì khó mà tu cho tròn Phật-đạo. Nói thế không thể hiểu nên trọng phần nhân-đạo mà bỏ phần Phật-đạo; mà nên hiểu rằng: đồng thời tu Phật-đạo, phải làm tròn nhân-đạo, nghĩa là cùng với tu huệ phải có tu phước.
Pháp-môn mà Đức Phật-Thầy Tây-An dạy tu tắt để đi đến Hội Long-Hoa là như thế, nghĩa là pháp-môn: học-Phật tu nhân. Nhưng đừng vội tưởng pháp-môn ấy chẳng thâu-hoạch được kết quả. Bằng chứng cụ-thể là đã có nhiều môn –đệ của Phật-Thầy đắc quả và phát huệ tâm. Như trường hợp của ông Thanh-Sĩ là một và còn bao nhiêu người mà chúng tôi chưa tiện giới-thiệu ra đây.(1)
Sở-dĩ chúng tôi phải nói đến pháp-môn của Phật-Thầy là để đáp lại các bạn đã hỏi: Phải làm thế nào khi biết cơ tận-diệt hầu kề Hội Long-Hoa sắp mở?
Nhưng những điều chúng tôi đã dẫn ra, chỉ là trong muôn một pháp-môn của Đức Phật-Thầy mà ở đây chúng tôi không thể nói nhiều hơn nữa. (2)
Để giúp quí bạn có một ý-niệm tổng-quát về Tận-Thế và Hội Long-Hoa, chúng tôi trích ra đây hai bài thơ khoán thủ của ông Thanh-Sĩ:
Ngày tháng trôi qua tợ bóng câu,
Giờ ân trên định chẳng còn lâu.
Tận đời vạn cảnh lâm tràng mộng,
Thế diệt thiên bang cuộc bể dâu
Chập chững nhân-gian nhiều ách nước,
Chờn vờn thế-giới lắm oan sầu.
Bên kia bên nọ tranh vô địch,
Lưng lửng rồi thôi chẳng đến đâu.
* * *
Tóm thâu ý nghĩa một ngày gần,
Tắc diệt cựu phàm lập Thánh tân.
Long hội Thần Tiên qui tứ-bộ,
Hoa trì Phật Thánh thống Tam-Nguơn.
Ông Trời biến cải màu thiên-hạ,
Bà Đất chuyển luân sắc thế trần.
Để biết huyền-vi cơ báo ứng,
Ý phàm hướng thiện rõ chơn-nhơn.
Viết xong ngày 10-11-1952.
(1) Kỳ dư còn nhiều bậc có Huệ và Điễn-lành không được nhắc đến, vì lẽ là không có sáng-tác về Tận-thế và Hội Long-Hoa.
(2) Hãy đọc quyển Đức Phật-Thầy Tây-An của Vương-Kim và Đào-Hưng.


Phụ-Lục: Khuyến thế (của ông Thanh-Sĩ)

Phụ-Lục: Khuyến thế
Cảnh đã khổ chưa buồn tránh khổ,
Kẻ còn mê lại cố thêm mê.
Hạ-Nguơn lắm việc gớm ghê,
Sao chưa tu tỉnh quay về Thượng-Nguơn.
Ta cũng từng để chơn nhiều chốn,
Từ thị-thành cho đến thôn quê:
Thấy dân lòng bắt ủ-ê,
Rượu chè phung-phí, me đề tứ tung.
Trai lẫn gái toàn dùng khách sáo,
Trẻ cùng già đầy lối ngổ-ngang:
Bảo sao chẳng cuộc khốn nàn,
Nhân gây bất chánh, quả mang không lành.
Tách ích-kỷ thường-sanh tham-nhũng,
Khiến gieo mầm kinh-khủng chiến chinh.
Từ trong hổn loạn gia-đình,
Chí ngoài xã hội rồi kình lân bang.
Nếu làm kẻ chịu tang chịu tóc,
Thì lại mình phải gốc phải gai.
Xét lòng kìa hỡi bớ ai!
Sớm chừa bạo ngược miệt-mài hiền-lương.
Gieo thiện-cảm quê hương xứ-xở,
Kết tình thương già trẻ khắp nơi,
Cứu nhau chóng thoát hoạn đời;
Độ nhau sớm được hưởng thời Thuấn Nghiêu.
Chữ bá-ái nâng niu sửa dạ,
Lẽ công bằng chạm vá nơi lòng.
Phật thừa như chẳng làm xong,
Cũng nên vẹn giữ cho trong đạo người.
Làm hiền-đức tốt tươi đáng mấy,
Thói hung hăng xấu-xí dường bao!
Sống gây sâu mọt đồng bào,
Thác làm quỉ quái chỗ nào gọi vinh.
Quả đất sắp rung-rinh lay-lắc,
Nhơn gian chờ say giấc Nam-Kha.
Tang thương muôn triệu ức nhà,
Phước hồng chữ ết (S) phù sa chói ngời.
Ai hữu chí sống đời Thượng-cổ,
Kẻ vô tình thác buổi Hạ-Nguơn.
Giặc này còn mãi dần-lân,
Tới khi tung nổ khắp trần mới thôi.
Tai họa ấy chỉ Trời cứu khỏi,
Khổ đau kia có Phật độ qua.
Tỉnh hồn hỡi bớ bá gia!
THANH-SĨ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét